Thông tin mới nhất: Phương pháp làm Phóng sự điều tra

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều

DẪN NHẬP
Việt Nam là một đất nước có nền văn học vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, khi thịnh vượng, lúc suy tàn, nhưng thời đại nào cũng có những nhà văn, nhà thơ uyên bác đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay. Nhiều người được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trải, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Họ đã có những tác phẩm kiệt xuất vượt lên cả mọi thời đại. Những tác phẩm của họ để lại như những di sản tinh thần làm rạng danh dân tộc Việt Nam, với nội dung và giá trị mang tính nhân văn cũng như tính giáo dục cao. Những tác phẩm đó phản ánh hiện thực cuộc sống của một giai đoạn lịch sử nào đó mà các tác giả đã sống đã thao thức và trăn trở. Sự tiếp thu những giá trị văn hóa – xã hội cũng như lịch sử và tôn giáo trong xã hội Việt Nam đã được đưa vào các tác phẩm của các tác giả ấy một cách tài tình mà khi nhắc tới người đọc phải nghiêng mình nể phục.

Trong thế kỷ XVIII cũng có một tác giả nỗi bật với tác phẩm được xem là một tuyệt tác của thi ca chữ Nôm đó là Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Không giống như tác phẩm chữ Nôm của Nguyễn Du khi viết nên Truyện Kiều phải lấy ý tưởng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc được dịch lại của Đặng Trần Côn mà Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm rất Việt Nam không dựa vào đâu cả. Nó phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII với biết bao bất công và bế tắc. Sự bất công được thể hiện qua khát vọng tự do được yêu thương được sống như bao người phụ nữ và sự bế tắc được thể hiện qua ước muốn được thoát ra khỏi cái “lồng son” của cung cấm để sống với cảnh đời “cục mịch nhà quê” của người cung nữ mà không được. Tác giả đã thông qua lời của người cung nữ nói lên tâm trạng của mình với nỗi thương cảm cho thân phận và cuộc đời phải chịu nhiều đắng cay.Với những từ ngữ Hán Việt, những điển tích và điển cố xưa trong những tác phẩm xưa của Trung Quốc tác giả đã miêu tả cuộc sống của nàng cung nữ trong cung vua với những cảm xúc thăng trầm. Cùng với những tư tưởng của đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho đã phác họa nên một tác phẩm mang đậm màu sắc hư vô trong thân phận kiếp người và cuộc đời. Chính vì vậy người viết đã chọn đề tài: “Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.” Đây là một tác phẩm được viết trong thời Lê-Trịnh nhưng vẫn mang màu sắc tôn giáo và chính từ đó đã nỗi bật lên triết lý hư vô về thân phận kiếp người cũng như về cuộc đời một cách tài tình.

NỘI DUNG
. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM

1.1. Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều
Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 22 tháng 3 năm 1741 (nhằm ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu), ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh.
Cha ông là Nguyễn Gia Cư, một quan võ được phong tước Đạt Vũ Hầu và mẹ là Quỳnh Liên quận chúa. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại vì Quỳnh Liên quận chúa là con gái của chúa Trịnh Cương. Ông nội là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Ông gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ ông là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Năm lên sáu tuổi, ông đã được vào học trong phủ chúa vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự. Năm 1782, ông được thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Ông là một người tài năng đa dạng, có công với triều đình nên được chúa Trịnh tin dùng và phong tước Ôn Như Hầu.Trong thời gian làm tổng binh ở Hưng Hóa, dù có công và được khen thưởng nhưng ông vẫn thường bỏ về nhà riêng ở Hồ Tây để làm thơ và bàn luận về triết học với bạn bè. Có người nói rằng chúa Trịnh không còn tin dùng ông nữa nên đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa vì thế mà ông chán nản bỏ về nhà sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả tu hành với hiệu là Như Ý Thiền. Ông còn những biệt hiệu khác là Hy Tôn Tử, Tân Thi Viện Tử và Sưu Nhân.
Ông là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học, triết học và còn tinh thông âm nhạc. Sở trường âm nhạc của ông là các bài ca, bài tán và là tác giả của bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Ông còn tinh thông hội họa và vẽ rất đẹp. Bức tranh lớn của ông là Tống sơn đồ đã dâng vua xem và được vua khen thưởng. Ông am tường cả kiến trúc và trang trí nên được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích ở Bắc Ninh. Đáng tiếc là các công trình nghệ thuật của ông đến nay không còn được lưu lại.
Sự nghiệp văn chương của ông cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao. Về thơ chữ Hán, ông có hai tập là Ôn Như thi tập khoảng một ngàn bài nhưng đến nay đã bị thất lạc. Về tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập hiện chỉ còn vài bài chép trong tập Tạy ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.[1]
Khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh vào năm 1786, ông đã ở ẩn tại miền núi xứ Hưng Hóa. Đến năm 1789, khi Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh và lập ra triều Tây Sơn vua đã mời ông cộng tác với triều đình nhưng ông cáo bệnh từ chối. Ông trở về quê cũ và sống ở đấy cho đến ngày 22 tháng 6 năm 1798 (nhằm ngày 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ) thì qua đời, hưởng dương 57 tuổi.
Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang. Không những thế tên ông còn được đặt cho các tên trường và tên đường trong một vài tỉnh thành trên đất nước Việt Nam.
1.2. Nội dung và ý nghĩa tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát[2]. Đây là một bài ca ai oán cho thân phận của một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua ân sủng, yêu thương thắm thiết nhưng chẳng bao lâu lại bị bỏ rơi. Ông đã dùng ngòi bút của mình với lối văn độc thoại để giải bày tâm trạng đau đớn của người cung nữ khi bị nhà vua ruồng bỏ. Nàng ý thức rõ được phẩm chất và tài năng của mình nên lặng lẽ tố cáo cuộc sống xa hoa phe phởn của vua chúa đã biến người phụ nữ thành món đồ chơi để thỏa mãn dục vọng một cách vô đạo. Sống trong cung cấm với nỗi cô đơn, tù túng nàng muốn thoát ra ngoài để trở về với cuộc sống “cục mịch nhà quê” của ngày xưa nhưng nàng vẫn bị giam cầm với bao nỗi niềm chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao được sự ân sủng nhỏ nhoi của vua như ngày nào nhưng đó chỉ là một ước mơ đầy tuyệt vọng. Và nàng nhận ra cõi đời này chỉ là những phù du, hư vọng, không thật như vừa tỉnh một giấc mơ.
Cung oán ngâm khúc được xem như một bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến đã chà đạp con người thông qua là tiếng thét ai oán của một trang tố nữ tài sắc vẹn toàn và tình cảm trong sáng, cao quý mà bị ruồng bỏ. Hình ảnh cung nữ chính là nạn nhân của chế độ phong kiến mang đầy bản chất ích kỷ hẹp hòi đến vô đạo của vua chúa đã biến họ thành món đồ chơi để thỏa mãn thú tính rồi ném bỏ không thương tiếc vào quên lãng. Nguyễn Gia Thiều đã thấy được cảnh này khi lui tới trong phủ chúa nên cảm thương cho nỗi lòng của người cung nữ. Với tấm lòng nhân đạo ông đã dồn hết tâm huyết và văn tài của mình để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn đến xé lòng về cuộc đời nàng. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm không chỉ dừng lại ở đó mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn là “Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà Nho thời đại ông, đầy chán chường và mệt mỏi.”[3]
2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TRIẾT LÝ HƯ VÔ VỀ KIẾP NGƯỜI, CUỘC ĐỜI TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy bao tang thương, thăng trầm, biến đổi của cuộc sống mà chính ông là người đã sống trong những biến cố ấy. Sự bế tắc của một thời đại với những tấm bi kịch đến tê tái trên thân phận kiếp người thông qua lời của người cung nữ đã vẻ nên một bức tranh ảm đảm cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng dường như ông chỉ mượn tâm sự của người cung nữ để nói lên nỗi niềm u uất của ông và cũng là của bao nhiêu người khác phải chịu nhiều bất công dưới chế độ phong kiến. Đến khi nỗi u uất đến đỉnh điểm ông đã lãng quên tâm trạng của người cung nữ mà trực tiếp bộc lộ về suy nghĩ của mình về kiếp người, về cuộc đời với triết lý hư vô rải rác trong tác phẩm và vô cùng sắc xảo đến từng chi tiết cũng như câu chữ.
Hư vô ở đây không phải Không cũng không phải Có. Ý thức, sự suy nghĩ thì bị giới hạn trong thế giới nhị nguyên :có và không. Nếu vượt có, không, lòng không dính mắc, sẽ trực nhận được Hư Vô. Chúng ta đã quá quen thuộc và trọn tin nơi ý thức, Hư vô không phải tư duy mà được, càng tư duy con người càng sai lầm và ý thức của con người không phải là một thứ dễ tin tưởng. Theo nhà Phật khi con người chưa giải thoát thì mọi tư duy của con người vẫn bị vô minh chi phối. Tất cả mọi khái niệm đều bị giới hạn và hư vô nếu có khái niệm thì cũng không chính xác. Càng lăn xăn suy nghĩ về khái niệm càng xa lìa Hư Vô, tánh Không, Phật tính, bản thể vũ trụ. Nói chung hư vô là không có gì tuyệt đối, không thật có cũng không thật không, là hư vọng, giả hợp thoát ra hẳn tư duy của con người và hư vô nó có những biểu hiện của nó. Và trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều có mang những biểu hiện của hư vô.
2.1. Quan niệm “Đời là bể khổ” trong Cung oán ngâm khúc.
Với giọng văn gồm nhiều từ ngữ của nhà Phật, Nho, Lão, Ôn Như Hầu đã giải thích về nhân sinh, vũ trụ và cuộc đời. Ông cho rằng cuộc đời là bể khổ mê tân, con người từ khi có mặt ở cõi đời này đã là khổ:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc chào đời mà ra!” (câu 55 - 56)
Đây là quan niệm “Sinh là khổ”, một trong Bát khổ của Khổ đế mà Đức Phật đã nói trong Tứ Đế. Khổ đế là chân lý đầu tiên trong Tứ Đế, nói lên sự thống khổ của chúng sinh và “Sinh là khổ” là điều đầu tiên mà Đức Phật đề cập đến. Khi mới sinh ra con người đã là khổ rồi và nỗi khổ đó được báo trước nên tiếng kêu đầu tiên lại là tiếng khóc. Tại sao không phải là tiếng cười mà là tiếng khóc vì tiếng khóc báo hiệu sự có mặt trên cõi đời này của con người sẽ chịu nhiều nỗi khổ mà sinh là nỗi khổ đầu tiên mà con người phải gánh chịu. Cùng quan điểm đó, Nguyễn Công Trứ cũng có câu:
Thoạt mở mắt thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.”
Thật vậy, cuộc đời có vui gì đâu mà cười, chính vì không vui nên mới phải khóc lúc sinh ra chứ. Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm Phôi pha cũng có đoạn: “Thôi về đi, đường trần đâu có gì”. Đúng vậy, đường trần không có gì cả chỉ là khổ thôi, mà Đức Phật cũng đã nói: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển” và con người chỉ là cánh bèo trôi nỗi dập dền trong bể khổ ấy:
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.” (câu 67 - 68)
Bể khổ: từ Hán Việt là khổ hải. Đức Phật ví sự khốn khổ của chúng sanh mênh mông vô cùng như biển”[4]. Bến mê: bởi chữ mê tân, nhà Phật nói: sự ngờ vực ở nơi tam giới và lục đạo thì gọi là mê tân, bến lạc đường phải nhờ thuyền Từ-bi của Phật mới đưa vào đến bến được. Con người không thể định hướng cho chính mình mà chịu sự tác động của những yếu tố khách quan khác. Ôn Như Hầu ví thân phận con người như là bọt bèo để mặt cho dòng nước cuốn đi vào bến bờ vô định. Nghĩ đến thân thể mà đau đớn xót xa khi phải mang thân người. Khổng Tử cũng nói: “Ta khổ vì ta có cái thân này”, nếu không còn thân này nữa thì ta có hết khổ chăng! Chưa hẳn thế, không biết khi không còn thân nữa thì ta có hết khổ không nhưng chỉ biết rằng khi có thân thì chắc chắn là có khổ. Đau đớn hơn cả là con người không thể làm được những gì mà mình muốn nên phải cứ dằn vặt trong biển khổ đau thương:
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh” (câu 71 - 72)
Bào ảnh: là cái bọt cái bóng. Kinh Kim Cương nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ riệc như điện, ưng tác như thị quan.” Nghĩa là: Tất cả các pháp như giấc chiêm bao, như chuyện huyền ảo, như bọt nước, như bóng đèn, như giọt sương móc và cũng như ánh sáng chớp nhoáng. Ý nói những sự hiện hữu trên đời đều không được lâu bền, là giả tạm, là vô thường.[5] Dù biết đời là tạm bợ, thân là giả dối không thật, đó là đứng trên phương diện pháp tướng của nhà Phật mà nói, nhưng cái mà con người đối diện với những đau khổ cay cực của cuộc đời là có thật. Cái đau khổ đó không những người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc muốn thoát ra mà cả Nguyễn Gia Thiều cũng muốn phá tan cái vòng bức bách ấy. Sự cay nghiệt của tạo hóa đã giết chết con người hồi nào không hay:
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.” (câu 73 - 74)
Trẻ tạo hóa: bởi chữ tạo hóa tiểu nhi, trẻ nhỏ tạo hóa, đây là lời nói bỡn gọi ông trời bằng trẻ con; nó xuất phát từ điển tích ông Đỗ Thẩm Ngôn đời Đường, khi đau nặng, bọn ông Tống Chi Vấn vào thăm, Đỗ Thẩm Ngôn nói rằng: “Ngao ngán thay trẻ tạo hóa làm ta nên khổ sở thế này…”[6] Chết đuối người trên cạn: bởi chữ Lục-trầm. Lục là trên cạn. Trầm là chìm đắm, Trang tử nói: “Không thèm đi chung với đường đời gọi là chết đắm trên cạn”. Ở đây có nghĩa là không hạp với tình đời.[7]
Phải chăng, tạo hóa khéo sắp đặt cho những con người “tài hoa bạc mệnh” Ông Như Hầu đã cảm thương cho thân phận tài hoa mà phận bạc của người cung nữ. Ông cảm thương cho người cung nữ cũng chính là sự cảm thương mình vì Nguyễn Gia Thiều cũng là một người tài hoa nhưng số phận của ông cũng gặp phải sự cay nghiệt của tạo hóa. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ai oán không kém: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Đâu phải Nguyễn Du chỉ có thương cảm cho nàng Kiều mà còn thương cho chính Nguyễn Du nữa để “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa”. Ông cũng đau đớn chua chát cho thân phận con người đâu thua kém gì Nguyễn Gia Thiều khi sống trong chế độ phong kiến ở thế kỷ XVIII. Sự chà đạp con người của xã hội phong kiến cùng với sự khắc khe của tạo hóa đã làm cho con người tê tái cả cõi lòng.
Đâu chỉ có “sanh là khổ” mà trong suốt cuộc đời từ lúc trẻ cho đến lúc tuổi già con người luôn đối diện với những bức bách, những nỗi sợ hãi về cuộc sống, đã bao lần lâm vào những cảnh sống dỡ, chết dỡ, đói nghèo hoành hành, tai nạn kinh khiếp:
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ, làm nau mấy lần." (câu 59 - 60)
Đường đời còn chồng chất nhiều nỗi đắng cay cùng với bệnh tật đã hành hạ thân xác lẫn tinh thân của con người. Sự thống khổ của bệnh tật đã cắt đứt tim gan, đốt ruột, cắt da con người hằng ngày hằng giờ trong đau đớn:
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.” (câu 63 - 64)
Với hình ảnh “lửa” trong câu thơ này, Nguyễn Gia Thiều đã dựa vào tư tưởng của kinh Pháp Hoa để nói về nỗi khổ của chúng sanh bị thuê đốt trong nhà lửa của tam giới: “Tam giới bất an, do như hỏa trạch”. Ở đây, ông miêu tả sự bức bách của người cung nữ khi sống trong sự tù túng của cung cấm giống như bị thiêu đốt trong nhà lửa. Tuy nhiên sự bức bách thật sự trong tác phẩm này hàm ý nói lên nỗi khổ tâm của tác giả khi sống trong chế độ phong kiến đầy dãy những điều “chướng tay gai mắt”. Chính vì sự chán ngán đó đã làm cho con người thêm mệt mỏi. Khi mùi đời chỉ toàn là hương vị đắng cay thì còn có gì vui đâu để mà bám víu:
Mùi tục lụy dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.” (câu 105 - 106)
Sống trong cuộc đời với hàng nghìn cảnh va chạm của công việc, của các mối quan hệ với xã hội, gia đình, dòng tộc, hàng trăm lần bị sứt mẻ thân thể lẫn tâm lý đã làm tin gan con người se thắt lại. Có khi muốn chết cho mau nhưng nào được như vậy. Khổ sở nhất là trong cảnh sống không được mà chết không xong mà cứ phải chịu đựng những nỗi đau dày vò dằn xé:
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết
Hình thì còn bụng chết đòi mau !” (câu 53 - 54)
Không chết được, vậy thì phải sống. Còn sống thì phải còn tất bật với cuộc mưu sinh. Trong cuộc mưu sinh đó con người phải toan tính và chạy theo cái vinh hoa phú quý có khi đánh mất mình hồi nào không hay. Thật ra có ai biết đủ để mà dừng lại. Chính vì sự ham muốn danh vọng mà con người đã rượt đuổi nó như một chiếc bóng. Nguyễn Gia Thiều đã phê phán hóa sự phú quý là “mồi phú quý”. Phú quý ở đây chỉ là miếng mồi dành để câu những con cá mà thôi. Con cá nào đớp được mồi tưởng đâu có được một bửa ăn no ai ngờ lại mắc phải cái lưỡi câu thì thật là khốn khổ. Còn vinh hoa thì ông lại gọi là “bả vinh hoa”. Bả ở đây là một thứ bỏ đi khi ai đó đã hưởng hết những phần tinh túy rồi. Cái mà người này bỏ người khác đi tìm thì đâu có giá trị gì nữa. Đã chán chê rồi cho nên mới bỏ và cái bỏ ấy chỉ còn là cái bả mà thôi. Vậy mà cái “bã vinh hoa” ấy biết bao nhiêu người tranh giành nhưng rốt cuộc chỉ là một trò lừa bịp của tạo hóa:
Mồi phú quý dữ làng xa mã
Bả vinh hoa lừa gả công khanh.” (câu 81 - 82)
Dẫu biết là trò lừa bịp của tạo hóa nhưng con người cứ mãi mê muội không nhận ra, cứ chạy đua theo nó đến nỗi “gót chân lấm bùn” (câu 70), “tóc rụng gần hết” mới nhận ra mình chẳng được gì. Kẻ mưu cầu được thì lại tham lam muốn hơn thế nữa, còn kẻ mưu cầu không được lại đau khổ khóc than. Đây chính là “cầu bất đắc khổ” mà Đức Phật đã nói trong Khổ Đế và được Nguyễn Gia Thiều áp dụng vào tác phẩm của mình.
Tất cả nỗi khổ của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ ái mà ra. Chính tình yêu đã làm cho người cung nữ bị ràng buột. Trong giáo lý Thập nhị Nhân duyên thì chi “ái” là một trong những chi khó đoạn nhất. Trong kinh Đoạn tận ái, Phật dạy: Nếu đoạn tận ái dục thì tất cả các chi khác cũng sẽ bị đoạn tận. Nếu đoạn tận các chi trong Thập nhị Nhân duyên con người sẽ được giải thoát. Giải thoát cũng có nghĩa là con người chấm dứt mọi khổ đau. Người cung nữ đã vướng phải lưới tình cho nên mới sinh ra những phiền não:
Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa dương.” (câu 45 đến 48)
Sợi xích thằng là sợi dây đỏ hay còn gọi là dây tơ hồng. Điển này xuất phát từ của tích của Vy Cố đời Đường ở Tống-đô, đêm đi chơi mát, gặp ông già ngồi xem sách ở dưới trăng, bên có cái đãy đựng tơ đỏ (xích thằng) hỏi ông đáp rằng: Quyển sổ này chép tên tuổi, đãy đựng sợi tơ đỏ để buộc duyên phận vợ chồng người. Những người đã ghi tên vào sổ này, dù người thù hoặc ở nước khác cũng vầy nên chồng vợ. Ông này không có tên, ông xem sách dưới trăng nên gọi Nguyệt lão có nghĩa là ông già dưới trăng, hoặc có khi gọi là “Trăng già" hàm ý là Nguyệt lão. Chính dây tơ hồng của Nguyệt lão đã cột chân của người cung nữ đã làm cho nàng vướng chân không thể thoát khỏi cái vòng lẫn quẩn đến nỗi nàng muốn cần đến giọt nước cành dương của Bồ tát Quan Thế Âm làm nguội lữa ái dục trong lòng nàng để nàng được thanh thản.
Nước dương: bởi chữ Dương chi tịnh thủy, giọt nước nơi cành dương liễu. Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: có vị tăng tên Phật Đồ Trừng người nước Thiên Trúc một hôm ông Thạch Lặc mời đến nhà chơi, vừa có đứa con đau bệnh nặng. Phật Đồ Trừng lấy cành dương liễu tẩm nước phép rảy cho đứa bé đau, liền lành khỏi. Phép ấy của Phật Quan Âm có bình ngọc cắm cành dương liễu trong bình có những giọt nước làm cho chúng sanh mát dịu như có phép mầu.
Phải nói rằng nguyên nhân của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ “ái” mà ra và chính nó đã làm nên biết bao nhiêu phiền muộn, bức bách. Triết lý hư vô trong Cung oán ngâm khúc khi cuộc đời là bể khổ đã in đậm trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều toát lên tư tưởng nhân đạo cảm thương cho thân phận con người qua lời oán than của người cung nữ. Ông tiếp thu khá rõ chân lý Khổ Đế của Đức Phật, tuy nhiên ông chưa tiếp thu ba chân lý khác là Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế nên màu sắc của tác phẩm mang một màu tối và tư tưởng của tác phẩm là sự yếm thế, không lối thoát.
2.2. Quan điểm về duyên sinh, vô thường và vô vi trong Cung oán ngâm khúc.
Chính vì ngán cái “tạo hóa” trớ trêu mà ông cho rằng muôn vật ở đời chỉ là hư vô, hư trụ, do duyên sinh, duyên khởi của vạn pháp mà tồn tại. Người viết tạm dùng hai từ “tạo hóa” để nói về một sự sắp đặt sẵn của mọi sự vật hiện tượng và luôn cả kiếp người. Con người tin có một đấng “bề trên” nào đó sắp đặt cuộc sống của con người và chi phối cả vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều cũng tin như thế, nhưng ông còn am tường hơn khi đem giáo lý duyên khởi của đạo Phật để giải thích cho sự tồn tại của vạn pháp nói chung và của con người nói riêng. Con người đã tồn tại trên cõi đời này theo nhân duyên hòa hợp mà thành thì vũ trụ nơi mà con người hiện hữu cũng do nhân duyên mà sinh diệt. Nhưng dù con người có tồn tại trong vũ trụ này cũng chỉ là sự ê chề, bi thương vì bị luật vô thường chi phối. Sự sanh diệt của con người sớm muộn gì cũng bị tan hoại bởi luật vô thường. Còn mọi sự vật hiện tượng trên cõi đời này cũng chỉ là giả hợp không thật có:
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.” (câu 95 - 96)
Như vậy, có gì đâu để đáng tự hào, để đáng vui trong kiếp sống phù sinh này chứ. Đó là sự bi đát nhất của vạn pháp mà con người cũng chỉ là một trong những hạt cát của sa mạc vạn pháp đó mà thôi cho nên phải chịu chung số phận sinh diệt, vô thường này. Tư tưởng này xuất phát từ Phật giáo và của Lão Trang mà Nguyễn Gia Thiều chỉ là người tiếp thu nó. Nguyễn Gia Thiều đã tiếp thu chân lý đầu tiên của đạo Phật là Khổ Đế, thuyết vô thường, thuyết duyên khởi để nâng cao nó thành tư tưởng của tác phẩm. Bên cạnh đó, ông còn tiếp thu triết lý vô vi trong Đạo Đức kinh của Lão Trang để nâng cao thành triết lý sống của mình.
Triết lý vô thường của đạo Phật và thuyết vô vi của Lão Trang trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc đã vẽ cho cuộc đời một bức tranh tang thương của kiếp người chăng? Không phải thế, hai triết lý này mô tả một cách hiện thực bản chất của vạn pháp là duyên sinh duyên khởi. Có sinh ắt có diệt đó là chân lý hiển nhiên và con người phải biết chấp nhận nó để mà sống, để mà khỏi đau khổ thêm nữa.
Trong câu 76, ông viết: “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương", vân cẩu: là mây chó, ý này được lấy trong thơ của Đỗ Phủ:
Thiên thượng phù vân như bạch y,
Tu tư hốt biến vi thương cẩu.”
Dịch
(Trên trời đám mây nổi như cái áo trắng,
Bỗng chốc hóa hình con chó xám.)
Ý nói sự biến chuyển nhanh chóng của mây. Về sau đem ví sự thay-đổi trên đời. Tang thương: tang là cây dâu, nương trồng dâu, thương là bể khơi, bãi bể. Sách Liệt Tiên truyện chép: Bà Ma-cô tiên-nữ đã nói bà từng thấy một nơi kia đám nương trồng dâu đã ba lần hóa thành bể khơi, bãi bể. Ý nói sự thay đổi nơi trần thế nhiều lần. Tang thương hay còn gọi Tang-hải-Tang-thương- Bãi bể nương dâu- Bể dâu, đều là một nghĩa.[8] Sự thay đổi biến thiên của một con người giống như nhìn một đám mây nỗi như áo trăng bỗng chốc lại hóa thành hình con chó. Biển xanh còn biến thành nương dâu thì thân người có xá gì. Theo Nguyễn Gia Thiều thời gian của một kiếp người thoáng mất qua cửa sổ: "Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi" (câu 353) còn Trịnh Công Sơn trong ca khúc Tình xa lại cho rằng: “Ôi tiếng buồn rơi đều nhìn lại mình đời đã xanh rêu”. Thật vậy cuộc sống con người thật ngắn ngủi nhưng con người đâu ý thức được đều đó. Chính không ý thức nên đã để thời gian trôi qua rất nhanh đến khi nhìn lại thì tóc trên đầu đã điểm bạc. Con người lúc nào cũng nghĩ rằng sự tồn tịa của một kiếp người là rất lâu nên nhạc sĩ Y Vân mới viết ca khúc Sáu mươi năm cuộc đời. Nhưng đối với đạo Phật thì kiếp sống của con người chỉ tồn tại trong từng hơi thở. Ở điểm này Nguyễn Gia Thiều thừa tự được tư tưởng của đạo Phật nhận biết thời gian như bóng câu qua cửa sổ rồi cuối cùng chẳng được gì ngoài nấm mồ cỏ mọc xanh rì:
Tuồng ảo hóa huyễn bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” (câu 103 - 104)
Vẫn biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả hạnh phúc trên đời chỉ là phù hoa ảo ảnh sẽ chìm đám vỡ tan như bọt bèo trong vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều đã ví cuộc đời này là vỡ “tuồng” mà vỡ “tuồng” thì làm gì mà có thật cho nên nó mới là “tuồng ảo hóa”. Nếu cuộc đời này là vỡ tuồng thì con người là những diễn viên trong vỡ tuồng đó được sự sắp đặt của đạo diễn “tạo hóa” chứ không phải làm theo ý của mình. Đáng buồn nhất là con người giống như một con rối trong vỡ “tuồng ảo hóa” này bị người khác giật dây. Có vui hay có buồn gì đi chăng nữa cũng phải cố gắng đóng cho tròn vai diễn chứ không được quyền quyết định hay cải lại. Ngẫm nghĩ lại kiếp người mà thấy đau lòng khi nhìn lại trăm năm đi qua của một kiếp người cuối cùng chỉ là một nắm mộ bên nghĩa địa buồn mà thôi. Ý thơ này của Nguyễn Gia Thiều giống với tư tưởng của Nguyễn Du trong hai câu đầu của tác phẩm Truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Có sống qua gần hết một kiếp người thì cuối cùng nhìn lại chỉ là sự chán chường đau đớn. Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều đã gặp Nguyễn Du cùng một quan điểm. Dù có sống đến trăm năm thì chỉ là trò bể dâu mà thôi. Nguyễn Gia Thiều đã miêu tả tâm trạng khổ sở cùng cực của người cung nữ khi bị dày vò trong cung cấm. Thông qua những hình dung từ: ảo, hư, tiêu điều, đau, tang thương cũng đủ nói lên tâm trạng quặn thắt của người cũng nữ trong chốn thâm cung.
Nguyễn Gia Thiều còn xem cuộc đời này chỉ là giấc mộng: "Kìa thế tục như in giấc mộng" (câu 49). Những vần thơ trong Cung oán ngâm khúc được xem khoảng thời gian hưởng niềm vui thoáng đến rồi chợt đi giống như một giấc mộng. Những điển này được dựa vào tích của Tô Đông Pha, Trang Chu, Lý Công Tá (bài Ký Nam Kha Mộng). Ngay cả trong tình yêu cũng được ví như giấc “mộng xuân” ngắn ngủi mà một khi mất đi con người ta dù có ngàn vàng cũng không thể nào mau lại được:
Dẫu mà ai có nghìn vàng
Đố ai mua lấy được một tràng mộng xuân” (câu 175 - 176)
Cho đến khi đêm nằm ngủ trong chiêm bao thấy hồn mình thành bướm nhởn nhơ đó đây, nhưng khi tỉnh giấc thấy mình vẫn là con người nên lòng còn tiếc nuối ngẫn ngơ:
“Khi bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ” (câu 218)
Mọi sự vật sự việc, mọi hiện tượng ở đời cũng chỉ là một giấc mộng Nam Kha huyễn hóa và vô tình mà thôi
Giấc Nam Kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không" (câu 83 - 84)
.“Giấc mộng Nam Kha”, có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên. Kể về chuyện của Thuần Vu Phân, nhân ngày sinh nhật của ông, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, ông ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bát giác ngủ quên.
Trong giấc mơ, ông mơ thấy mình đi thi rồi đậu trạng nguyên và được vua gã công chúa cho ông. Sau đó không lâu ông được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Ông cố gắng làm việc và quý mến nhân dân nên được nhân dân hết lòng khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của ông đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có bảy con, năm trai hai gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động ông về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng người dân không cho.
Khi nước Thiên La đem quân xâm lược nước Đại Hòe, nước Đại Hòe bị thua trận nhiều lần. Các quan trong triều tiến cử Thuấn Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất săc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhận mệnh lệnh của vua, ông dẫn quân xuất chinh nhưng vì không biết phép dùng binh nên quân của ông đã bị thua và xuýt nữa ông bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuấn Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến và có những kiến đang cư trú ở đó. Nghĩ đến tích này mọi người gọi là “giấc mộng Nam Kha” hay còn gọi là “giấc hòe”.[1]
“Giấc mộng Nam Kha” được con người ví như là một giấc mơ về vinh hoa phú quý, nó chỉ là huyễn hóa không thật, khi tỉnh giấc mơ thì hiện thực vẫn trở về. Ở đây người viết đưa ra quan điểm: “Giấc mơ là có thật nhưng những điều trong giấc mơ chỉ là hư ảo.” Thế mới hay trò đời dâu bể khéo sắp bày và cuộc đời chỉ là một giấc mộng vô thương, hư vọng.


3. Quan điểm về tiền định, nghiệp báo, luân hồi
Nguyễn Gia Thiều cho rằng đời là tạm bợ nên phải ung dung tự tại để sống nhiều khi còn muốn tu hành thoát tục. Những điều này được thể hiện trong thơ ông nhưng chưa đạt rốt ráo của sự giải thoát. Ông muốn thoát khỏi chế độ xã hội bất công đã khinh thường và áp bức con người đến mức nghẹt thở cũng như người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc đã muốn phá tan cung cấm giam hãm mình bấy lâu nay để trở về sống đời “cục mịch nhà quê” mà không được. Điều này cho thấy làm người thật khó, không phải muốn gì cũng được. Ấy phải chăng đó là sự sắp đặt của “tiền định” mà con người không thể can dự vào:
Vẻ chi ăn uống sự thường
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.” (câu 51 - 52)
Theo Vũ Ngọc Khánh thì ý này lấy từ sách Mạnh Tử : “Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định” (một cái uống một cái ăn đều được định trước).[10] Những việc nhỏ như cái ăn cái uống mà còn được tạo hóa sắp đặt sẵn huống chi là những việc liên quan đến vận mệnh của con người. Con người không thể cưỡng lại nỗi mà đành cam chịu số phận khắc nghiệt do tạo hóa đã định trước.
Đó là tâm trạng bế tắc của Nguyễn Gia Thiều hay là sự bế tắc của cả xã hội phong kiến thế kỷ XVIII. Xã hội bế tắc là do con người hay do “tiền định”? “Một câu hỏi lớn không có lời giải đáp, cho đến bây giờ mặt vẫn chau.” Chính nhà thơ Huy Cận trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương đã nói như thế. Mọi sự bế tắc của kiếp người in hằn trên thể xác lẫn tâm hồn của các vị La Hán. Chính cha ông ta đã đem những tâm sự u uẩn, bế tắc ấy vào trong những tác phẩm của mình. Các vị La Hán đã dứt hết các phiền não rồi nhưng không ngờ khi thấy cảnh đời cơ cực của chúng sanh mà “các vị đau theo lòng chúng nhân”. Nhìn thấy cảnh đời cay nghiệt mà chế độ phong kiến đem lại cho con người thì “tượng không khóc cũng đổ mồ hôi”. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng viết:
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
Văn chiêu hồn từng thắm giọt mưa rơi.”
Theo ý của người viết nghĩa rằng “tiền định” còn hàm nghĩa là “nghiệp”. Đây là một quan điểm của đạo Phật. Do nhân của tiền kiếp của người cung nữ đã gieo cho nên ngày nay gánh quả báo là phải chịu tất cả những đau khổ. Do nghiệp của thân, khẩu, ý tạo tác mà ngày nay người cung nữ khó có thể mà thoát được dù có muốn thoát hay không. Chính cái nghiệp này đã trói buột cuộc sống của con người, nếu con người có vùng vẫy cũng không thể thoát nên đành phải chấp nhận nó mà thôi. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng nói:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Chính vì sự bế tắc không thể thoát ra khỏi cái nghiệp đã định sẵn mà Nguyễn Gia Thiều muốn tìm đến sự tu hành. Một mặt ông muốn tìm đến của Phật để mong dứt hẳn mối thất tình vây hãm con người:
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.” (câu 109 – 110)
Thất tình: là bảy thứ tình của con người gồm: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét và ham muốn, là con người ai ai cũng có bảy thứ tình này đã làm cho con người đau khổ, trầm luân. Ông muốn tìm đến cửa Phật để “mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên”. Hoa đàm: bởi chữ Ưu-đàm-hoa là một hoa thiêng-liêng của nhà Phật, ba nghìn năm mới có một lần nở hoa, mỗi khi có hoa tức có Phật ra đời.[11] Ông muốn mình như hoa đàm không vướng bận một chút ưu phiền nào. Đuốc tuệ: bởi chữ Tuệ hỏa, tiếng nhà Phật nói: ngọn lửa trí tuệ để đem chúng sinh ra khỏi nơi chướng ngại khổ sở. Ông muốn dùng đuốc tuệ để soi đường dẫn lối ông thoát khỏi sự bế tắc của cõi đời này. Nói cách khác là ông muốn tìm đến với đạo Phật để tu hành với tiêu chí “duy tuệ thị nghiệp” nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp để mà giải thoát.
Nguyễn Gia Thiều không chỉ tu theo Phật mà ông còn muốn tu theo đạo Lão nữa Ông muốn: “Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa” để quên đi những nỗi phiền muộn của cuộc đời. Ông muốn tiêu dao vui thú với thiên nhiên cho quên đi những tháng ngày u uất.
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.”(câu 113 - 116)
Ông muốn thoát khỏi cái thân uế trượt này siêu thăng như tiên để được tiêu dao không phải lo toan với những ưu tư phiền muộn. Nhưng không phải ai muốn đi tu là cũng tu được đâu? Ôn Như Hầu còn cảm thấy trên con người còn có một sức mạnh thần bí nào đó chi phối kiếp người mà con người tự mình không thể hiểu thấu trong hai câu thơ:
Cái quay búng sẵn trên trời'
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.” (câu 91 - 92)
Theo Vũ Ngọc Khánh chỉ có “ba chữ “cái quay búng” mà mỗi người hiểu một các khác nhau. Giáo sư Nguyễn Huy Bảo trong cuốn sách “Nhân bản Thiên Chúa Giáo” (trang 76 và 24) giảng “cái quay búng” trong Cung Oán Ngâm Khúc là Trời (viết chữ hoa). Giáo sư Tôn Thất Lương lại giảng “cái quay” là luân hồi của Đạo Phật”. Còn trong Chú giải Cung oán ngâm khúc thì cho biết: “Cái quay: bởi chữ Luân hồi, bánh xe quay, là cái máy quay của tạo hóa; nhà Phật nói: chúng-sinh ở trong thế giới, từ khi đầu tiên đến nay cứ bị quay xoay vần trong lục đạo hết kiếp này đến kiếp kia mãi, như cái bánh xe quay mãi không thôi. Chỉ có kẻ tu hành đắc đạo mới thoát khỏi luân-hồi ấy.”
Chỉ có ba chữ thôi mà có nhiều cách hiểu khác nhau. Cũng theo Vũ Ngọc Khánh: “Nếu chỉ có ba chữ “cái quay búng” thôi, có thể hiểu là sự “may rủi”. Nếu thêm chữ “sẵn” thành “cái quay búng sẵn”, có thể là “tiền định”. Nếu lại thêm hai chữ “trên trời” cái tiền định này ở ngoài tầm con người không phải ở dưới trần nhưng ở trên trời. “Cái quay búng sẵn trên trời” chi phối ra sao? Trí người không ai thấu hiểu chỉ thấy “mờ mờ nhân ảnh”. Con người mò mẫm tìm ngược xuôi trong bóng tối “như người đi đêm” không biết đi về đâu. “Máy huyền vi mở đóng khôn lường”[12]
Người cung nữ muốn trở lại với cảnh đời được sủng ái như ngày xưa không được mà muốn thoát ra để trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” cũng không xong. Đây chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều muốn vứt bỏ đi tất cả nhưng lửa duyên lại chưa dứt được còn muốn tu hành nhưng nghiệp quả lại không cho. Chính vì vậy mà ông ngán ngẫm nên không mong muốn gì thế sự nữa:­
Đa mang chi kiếp đèo bồng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.” (câu 111 – 112)
Đây không chỉ là tư tưởng của Nguyễn Gia Thiều mà là của một lớp người trí thức bấy giờ. Xã hội rối ren không còn kỷ cương, một tâm trạng bế tắc trước xã hội như thế con người ta muốn thoát khỏi nhưng không thể, để thấy xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII là một xã hội bế tắc khiến con người muốn vùng vẩy ra khỏi mà không được. Dù có thương cảm cho kiếp người hay có oán than cho xã hội thì Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một tấm lòng trung với vua giống như người cung nữ oán trách vua khi bị ruồng bỏ nhưng khi ước ao trở lại cảnh ái ân với vua như ngày nào không được thì nàng vẫn phải giữ lòng trung trinh:
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa.” (câu 355 – 356)
Đây là quan niệm về “chữ Trung” của Khổng Tử trong “Trung quân ái quốc” dù nhà vua có gì đi chăng nữa thì phận làm bầy tôi phải giữ lòng trung “Quân xử thần tử thành bất tử bất trung”. Nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng cuối cùng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh ở đây nàng cung nữ đã nói thay cho Nguyễn Gia Thiều một nhà luôn đặt trên mình ba chữ “quân, sư, phụ” cho nên phải tận trung với vua. Nếu không trung với vua thì không là người yêu nước, chính vì vậy mà các nhà Nho rất xem trọng điều này. Hai câu thơ này la hai câu kết của tác phẩm hàm ý rằng dù xã hội có thế nào đi nữa thì con người cũng phải tôn trọng những giá trị lễ nghi của cuộc đời. Như nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng vẫn giữ một lòng trinh bạch cũng như Nguyễn Gia Thiều dù có bức xúc với xã hội đương thời những vẫn giữ lễ nghĩa của một người tri thức.
3. Giá trị nghệ thuật của Cung oán ngâm khúc.
Với thể thơ song thất lục bát đã làm cho nhạc điệu của bài thơ là một bản tình ca đầy âm sắc. Với vần trắc của câu thất thứ nhất đã tạo nên một cảm giác rất gay gắt cho người đọc và người nghe. Nhưng câu thất thứ hai với vần bằng đã tạo sự nhẹ nhàng trở lại. Cho đến hai câu lục bát với vần bằng đã tạo nên một cảm giác trầm lắng xuống. Đây là nét độc đáo của bài thơ khi đọc đến hai câu lục bát có sự chùng xuống giống như những nốt trầm của một bài ca buồn. Theo người viết cảm nhận một khổ thơ bốn câu song thất – lục bát trong bài thơ này ẩn chứ nhiều cung bậc của cảm xúc. Câu thất thứ nhất nói lên sự ai oán, nỗi khát khao đến cháy lòng, câu thất thứ hai dịu hơn một chút vì sự ai oán và nỗi khao khát đã nguội dần, cho đến hai câu lục bát thì chùng hẳn vì biết rằng có mong đợi có ước ao cũng chỉ là tuyệt vọng mà thôi. Vần điệu song thất lục bát được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng một cách chặt chẽ. Chính vì vậy mà Cung oán ngâm khúc từ khi phôi thai cho đến khi hình thành là dùng để ngâm nga chứ không phải để đọc.
Cung oán ngâm khúc rất chặt chẽ về mặt cấu trúc cũng như sắc sảo về ngôn từ. Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, chuẩn xác, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục luỵ, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹt mai, thánh thót cung đàn, nỉ non tiếng địch, gay gắt điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, âm thầm chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả... Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt hảo mà không có từ ngữ nào có thể thay thế được. Nó giống như một tác phẩm điêu khắc đòi hỏi sự tinh xảo và tỉ mỹ đến từng chi tiếc mà người nghệ nhân phải rất tài hòa mới thực hiện được.Những danh từ được dùng như: bể khổ, bến mê, nước dương, bào ảnh, thất tình, hoa đàm, đuốc tuệ, tiền nhân, hậu quả... đều là những điển trong các Kinh Phật như Kinh Kim Cương, Pháp Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Truyền Đăng Lục... bên cạnh những từ ngữ của Lão giáo như: gió mát trăng thanh, thoát trần, cái thân ngoại vật, tiên,… đã làm cho tác phẩm khá phong phú về nghệ thuật.
Trong Cung oán ngân khúc, không gian chủ yếu là cảnh bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo cùng thời gian chủ yếu là bóng đêm và mùa thu với sự hồi ức đã tạo nên một bức tranh vô cùng đen tối, ảm đạm, buồn bả. Thông qua những hình dung từ về xúc giác, thị giác được chọn lọc một cách chính xác làm cho người đọc có nhiều sự tưởng tượng khác nhau. Hơn thế nữa, tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bằng giọng văn réo rắt làm bật lên tâm trạng não nùng, ai oán của nhân vật trong khúc ngâm một cách tài tình.
KẾT LUẬN
Cung oán ngâm khúc là khát vọng muốn đạp đổ tất cả những áp bức bất công của chế độ phong kiến của cung nữ biểu hiện tinh thần phản kháng, căm hận tột cùng của con người trước thực tại buồn đau để có được sự tự do hạnh phúc. Nàng cung nữ mong muốn có được tình yêu thương giống như bao người phụ nữ bình thường khác. Đó là một lý do chính đáng mà bất cứ một người phụ nữ nào cũng ước mơ. Nhưng đối với nàng là một điều không thể với tới. Cung oán ngâm khúc còn phê phán quan niệm “trọng nam kinh nữ” thông qua việc đa thê của vua quan phong kiến đã biến phụ nữ thành đồ chơi rồi ruồng không thương tiếc.
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Ôn Như Hầu đã dùng lời than oán của người cung nữ để bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy cuộc đời đầy tang thương biến đổi với những thăng trầm mà chính ông là người đã sống trong thời đại lịch sử ấy. Tâm sự của Nguyễn Gia Thiều là tấm bi kịch tiềm tàng những mâu thuẫn nghiệt ngã đến nối ông muốn thoát khỏi sự bức bách đó để sống một cuộc đời siêu phàm thoát tục. Tâm sự của ông cũng chính là tâm sự của bao người trong xã hội đương thời khát khao có được một cuộc sống bình yên. Nhưng xã hội lại bế tắc làm cho bao nhiêu người đau khổ đến nỗi nhân phẩm con người bị chà đạp đến đau lòng. Ước mơ được yêu được sống tự do được hạnh phúc là ước mơ chung của tất cả mọi người nhưng đối với người cung nữ điều đó thật xa vời. Ôn Như Hầu cảm thương cho thân phận người cung nữ cũng như là cảm thương cho thân phận của bao nhiêu người phụ nữ khác và cũng chính là thương cho thân phận mình. Đây là tư tưởng nhân đạo mà Nguyễn Gia Thiều đã gởi gấm qua tác phẩm.
Với những quan niệm của Phật giáo, Lão Trang, Khổng Tử, Mạnh Tử đã làm cho tác phẩm đa dạng về tư tưởng làm nỗi bật lên triết lý hư vô dẫu biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả những hạnh phúc chỉ là phù du ảo ảnh nhưng vẫn hy vọng một ngày mai tươi sáng. Dù ước mơ không trở thành hiện thực thì con người vẫn phải sống và sống với những khát vọng của mình. Sống sao cho đúng nghĩa để không phải bị tiếng đời mai mĩa và không phải ân hận khi chết đi. Giống như nàng cung nữ dù có oán trách vua ruồng bỏ mình nhưng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh không thay đổi dù có sống trong cảnh cô đơn nơi hoàng cung. Cũng vậy Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một lòng trung thành với vua cho dù chế độ phong kiến có nhiều điều bất cập. Đây cũng chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều và cũng là quan niệm sống của tầng lớp tri thức phong kiến lúc bấy giờ.







Read more...

Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

Lễ tốt nghiệp

Sáng ngày 28/7/2020 Trường CĐ Phát thanh- Truyền hình II đã long trọng tổ chức lễ tốt nghiệp cho các lớp 07 và 08. Sau đây là một số hình ảnh thành viên lớp 07CĐBC2 trong buổi lễ.



























Read more...

Hội nghị tập huấn, cho người sử dụng lao động.

Sáng 19/5/2010 tại Tre xanh Plaza diễn ra Hội nghị tập huấn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các quy định pháp luật cho người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tham dự hội nghị có Ông Huỳnh Ngọc Tục Giám đốc sở Công thương, Ông Bùi Ngọc Sơn Phó Giám đốc sở Công thương và đại diện các doanh nghiệp tại Gia Lai.
Thưc hiện theo nghị quyết 646/ QĐ- UBND ngày 14/10/2009 của UBND tỉnh Gia Lai về việc ban hành kế hoạch triển khai quyết định số 31/ 2009 QĐ- TTg ngày 24/02/ 2009 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc phê duyệt đề án “ Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp” . Qua đó Sở Công Thương được UBND tỉnh giao tổ chức triển khai về thực hiện tiểu đề án 4 về “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các quy định pháp luật có liên quan cho người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”
Hội nghị tổ chức, nhầm phổ biến sâu rộng nội dung cơ bản về pháp luật lao động cho người sử dụng lao động, để từ đó doanh nghiệp nắm vững về quyền và nghĩa vụ của người tham gia lao động làm trong các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó nâng cao vai trò chủ động cho doanh nghiệp, đồng thời phối hợp chặc chẽ với cơ quan chức năng, các đoàn thể của địa phương, tổ chức tốt việc phổ biến tuyên truyền pháp luật, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng vi phạm pháp luật trong sản xuất kinh doanh.
Trao đổi với chúng tôi trong việc tổ chức hội nghị tập huấn Luật sư Trần Thanh Tùng cho biết:
“ Trong quá trình làm việc tôi nhận thấy nhiều doanh nghiệp không nắm vững đầy đủ những quy định. Bởi vì cũng xuất phát từ một số điểm như luật thay đổi tương đối nhanh thì tôi nghĩ rằng việc P&P và Sở thương mại Gia Lai tổ chức hội thảo này rất hợp lý, và rất cần thiết cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp vừa tổ chức được hoạt động kinh doanh của mình và tổ chức bộ máy nhân sự và tuân thủ quy định pháp luật lao động. Tham gia chương trình này nhầm sang sẽ những kinh nghiệm mà chúng tôi có được trong quá trình giải quyết việc tranh chấp lao động và tư vấn cho doanh nghiệp”.
Với những hoạt động, tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp luật lao động và các quy định pháp luật có liên quan, được thực hiện một cách đồng bộ, có trọng tâm góp phần đưa hoạt động phát triển đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Qua đó phấn đấu đến năm 2012 đạt 95% người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp dân doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phổ biến pháp luật lao động.
Ông Võ Văn Tài, công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Đạt- Cụm công nghiệp Phường An Bình Thị Xã An Khê cho biết.
“ Đây là bài học rất quý giá cho người trả công và người nhận hợp đồng lao động, thứ nhất quản lý nhân lực lao động, thứ hai dựa vào cơ sở pháp luật nhà nước để xử lý đúng lúc, và người lao động và người sử dụng lao động có cái chung nhất hoạt động cụ thể, và cơ cấu của nhà nước ngày càng đi lên theo hướng quốc tế. Công ty tôi thì có 2 bộ phận khai thác và chế biến cho nên công việc cũng nhiều và khoáng cho cụ thể. Cho nên tôi rất cảm ơn khi nhận được giấy mời tập huấn và tôi rất cảm ơn khi được tập huấn và tôi sẵn sàng tham gia để áp dụng cho đơn vị”.
Với những hiệu quả thiết thực, hội nghị sẽ tiếp tục triển khai trong thời gian tới cụ thể sau khi tổ chức tại Tp. Pleiku, đợt 2 sẽ được tổ chức tại huyện Chư Sê vào tháng 7/ 2010, và đợt 3 sẽ tổ chức tại thị xã An Khê vào tháng 9/2010. Và vào quý IV hội nghị sơ kết, báo cáo đánh giá rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch.

Vũ Luân

Read more...

Bài ghi nhận: Công tác ôn tập cho kỳ thi tốt nghiệp các trường THPT

Toàn tỉnh Gia Lai có khoảng 14 ngàn thí sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT năm học 2009-2010, trong đó có khoảng 13.000 thí sinh hệ THPT và 1.000 thí sinh hệ giáo dục thường xuyên, tăng 2000 thí sinh dự thi so với cùng kỳ năm ngoái. Toàn tỉnh có 15 cụm trường thi, trong đó có 7 cụm thi 3 trường, và 8 cụm thi 2 trường.
Theo ghi nhận của chúng tôi tại một số trường THPT tại Tp. Pleiku như Lê Lợi, Phan Bội Châu, Pleiku, Hùng Vương…các môn thi tốt nghiệp đã được chuẩn bị chu đáo và kỹ lưỡng đến từng “cen-ti-met” như: Giảm một số môn phụ và tăng thêm giờ cho những môn thi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, nhà trường tập trung xây dựng các đề cương ôn tập cho các em theo từng giai đoạn, từng đối tượng bám sát chương trình và cấu trúc đề của Bộ.
Ngoài ra nhà trường và giáo viên đã tổ chức tốt việc ôn tập cho học sinh theo từng chủ đề trọng tâm của những môn thi. Bao gồm ôn tập tổng hợp kiến thức, kỹ năng cách làm bài, vì yêu cầu của những môn thi phải nắm vững kiến thức không chỉ là học thuộc lòng mà phải có kỹ năng tư duy với từng bộ môn và có thể vận dụng vào thực tế, nhất là với những môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh đó nhà trường đã hướng dẫn học sinh tự làm bài tập ở nhà và kiểm tra sát sao tình hình ôn tập. Đối với giáo viên chủ nhiệm cần tăng cường phối hợp với phụ huynh để nhắc nhở việc ôn thi thật tốt cho kỳ thi sắp tới.
Trao đổi với chúng tôi trong công tác chuẩn bị cho kỳ thi Thầy Nguyễn Chương Hiệu trưởng Trường THPT Pleiku cho biết: "Khi bộ thông báo 3 môn thi thì nhà trường tăng thêm tiết . 6 môn thi tốt nghiệp thực hiện theo chương trình phân phối của bộ, cộng thêm mỗi môn một tiết và dạy trong chương trình chính khóa buổi sáng. Cách thức ôn tập sau khi thi học kỳ hai xong, theo chỉ đạo chuyên môn của nhà trường là ôn tập trọng tâm kiến thức cơ bản, vừa theo cấu trúc của đề mà bộ sẽ ra. Trong 6 môn thi thì 4 môn của Khoa học-Xã hôi và nhân văn. Cấu trúc của đề thi ví dụ như đề thi môn địa chẳng hạn, thì người ta sử dụng Atlas, người ta sử dụng những số liệu mà phải tư duy, ngoài việc học bài phải tư duy. Học sinh cần phải bình tỉnh chổ này: Bởi vì bộ ra những chương trình rất trọng tâm, cơ bản trong chương trình lớp 12 phổ thông, không ra ngoài cả đâu cho nên các em phải cố gắng, suy nghĩ cho kỹ, nắm vững kiến thức lớp 12 thì kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 rất nhẹ nhàng, không phải căng thẳng, chính tâm lý thoải mái cho các em thì các em sẽ làm được bài.”
Các môn thi thuộc lĩnh vực Xã hội và nhân văn như môn lịch sử, phần chung chiếm 70% tổng số điểm bài thi, gồm hai câu, phần riêng chiếm 30%. Theo cấu trúc đề thi, thí sinh sẽ phải nắm kiến thức lịch sử thế giới giai đoạn từ năm 1945-2000 và lịch sử Việt Nam từ năm 1919-2000. Môn địa lý, phần chung chiếm 80%, gồm ba câu, phần riêng 20%, thí sinh chọn một trong hai câu, yêu cầu học sinh phải nắm kiến thức và thành thạo kỹ năng đọc và sử dụng Atlas.
Thầy Trần Vẽ Tổ trưởng, tổ Văn, Sử, Địa trường trường THPT Plekiu cho biết: “Trong cấu trúc đề thi môn địa thì điểm thuộc bài thường chỉ có 6 điểm, còn 4 điểm còn lại là rèn luyện kỹ năng có vẽ biểu đồ này, sữ dụng Atlas có tính số liệu. Tổ địa lý của trường chủ động biên tập lại đề cương ôn tập phát về cho từng học sinh để cho các em dựa vào đề cương đó thì quá trình các em đở vất vã hơn khi cầm sách giáo khoa để học, mỗi môn tăng thêm mỗi tuần một tiết để ôn tập cho học sinh, tập trung rèn luyện kỹ năng, vẽ các loại biểu đồ, khả năng đọc Atlas để làm bài Địa Lý.
Lời khuyên phải tự tin bình tỉnh đọc thật kỹ đề, xem người ta yêu cầu cái gì, sau đó để vài ba phút trấn tỉnh xác định yêu câu rồi hẳn làm bài. Trong thời gian ôn thi nên có lịch ôn thi cụ thể, tự tin rèn luyện thật tốt rèn luyện kỹ năng vẽ các loại biểu đồ, kỹ năng tính toán số liệu và kỹ năng sữ dụng Atlas vì Atlas là tài liệu cuốn sách thứ hai được công khai đem vào phòng thi, mà Atlas chứa đựng 80% số liệu trong kiến thức giáo khoa.”
Chỉ còn hơn 2 tuần nữa kỳ thi tốt nghiệp THPT sẽ diễn ra và những ánh đèn sáng trong đêm, cùng với đó là sự nổ lực miệt mài trong việc ôn tập là áp lực không nhỏ đối với các em để đạt được kết quả tốt trong kỳ thi sắp tới.
Em Nguyễn Thị Thúy Diễm Trường Hùng Vương cho biết: “Về kế hoạch ôn thi tốt nghiệp THPT với sự giúp đỡ của các thầy cô, và sự nổ lực của bản thân, em đã đề ra một số kế hoạch cho chương trình ôn tập các môn Toán, Hóa, Anh văn thì giải đầy đủ các loại bài tập và rút ra các phương pháp chung và cách làm bài tốt nhất. Năm nay môn Địa lý sử dụng Atlas vì vậy cần rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlas tốt, các môn Văn, Sử cần nắm được nội dung trọng tâm.”
Để kỳ thi tốt nghiệp đạt kết quả cao, công tác ôn tập đã được học sinh chuẩn bị một cách chu đáo, ngoài ra phụ huynh học sinh cũng tạo điều kiện tốt nhất cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để cùng con mình vượt “ Vũ môn” trong kỳ thi lần này.

Vũ Luân

Read more...

Lễ tổng kết và trao giải “Thiếu nhi với Mỹ Thuật”

Sáng 15/5/2010 tại cung thiếu nhi diễn ra Lễ tổng kết và trao giải “Thiếu nhi với Mỹ thuật” do nhà thiếu nhi cùng Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Pleiku phối hợp tổ chức. Đến tham dự buổi lễ có Đ/c Hoàng Ngọc Luận- nhà giáo ưu tú trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Pleiku, Bà Nguyễn Thị Liễu Phó chủ tịch- Hội đồng đội Tp. Pleiku..và đặc biệt có 69 em đạt giải trong cuộc thi vẽ đến từ các trường Tiểu học và Trung học cơ sở trên địa bàn Tp.
Các tác phẩm dự thi có nhiều nét đặc sắc, đột phá và những ý tưởng mới lạ, thể hiện sự sinh động qua từng nét vẽ của tuổi thơ. Những tác phẩm đạt giải cao như: Bác Hồ với thiếu nhi; Bản sắc văn hóa các dân tộc Tây nguyên; An toàn giao thông…
Chị Nguyễn Thị Diễn: Tổng phụ trách đội Trường Lương Thành cho biết.
“Hội thi vẽ được tổ chức nhầm giúp cho các em học sinh có được sân chơi lành mạnh, qua đó các em còn được thi thố tài năng và bộc lộ năng khiếu của mình. Qua đó hình thành cho các em những nét cơ bản về tranh. Giúp cho các em cảm nhận được nét đẹp của mỹ thuật qua từng chủ đề. Ngoài ra khi áp dụng vào thực tế các em cũng hiểu thêm khung cảnh và nét đẹp thực tế để đưa vòa bức tranh của mình và giúp cho các em tự tin hơn khi lựa chọn năng khiếu của mình.”
Các em đã đưa nhiêu đề tài, hình ảnh và màu sắc để tạo nên những bức tranh đầy sinh động được thể hiện qua những suy nghĩ, những khát vọng của mình qua các tác phẩm dự thi.
Em Nguyễn Thị Hương Ly học sinh trường Lương Thành cho biết:
“Em đoạt giải nhì với chủ đề An toàn giao thông. Với những hình vẽ trên giấy, em sẽ cùng các bạn đưa vào thực tế, để mọi người cùng nhau chấp hành luật lệ giao thông.”
Với những kết quả đã đạt được Ban tổ chức đã trao 69 giải cho các cá nhân và tập thể đạt kết quả xuất sắc trong cuộc thi và là hoạt động thiết thực nhất chào mừng quốc tế thiếu nhi 1/6.

Vũ Luân

Read more...

Lễ “Tri ân và Trưởng thành”

Sáng 13/5/2010 tại trường THPT Pleiku, đã diễn ra lễ “Tri ân và Trưởng thành”. Đến tham dự buổi lễ có bà Nguyễn Thị Thu Hà Phó chủ tịch công đoàn ngành Giáo dục, Ông Nguyễn Duy Dũng Phó trưởng phòng phổ thông, Ban giám hiệu nhà trường và đặc biệt có 540 học sinh lớp 12.
Lễ “Tri ân và Trưởng thành” là điều kiện để mỗi học sinh, và thầy cô giáo nhìn lại lớp, lại trường nơi các học sinh đã học tập và gắn bó trong 3 năm học tại mái trường phổ thông trong tình yêu thương, dạy bảo tận tình của thầy cô, sự đoàn kết của bạn bè. Để sau khi ra trường mỗi học sinh đều khắc ghi công ơn giáo dục và phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thầy Nguyễn Chương Hiệu trưởng trường THPT Pleiku nói.
“Phía trước các em là những kỳ thi căng thảng và đầy thử thách có ý nghĩa quyết định. Con đường các em đi là phía trước, hãy vượt qua và đạt kết quả thật như ý để xứng đáng với công ơn cha mẹ, thầy cô và xứng đáng với truyền thống hiếu học năng động, của học sinh trường THPT Pleiku để sống đúng ý nghĩa, sống đẹp, sống có ích cho mọi người, cho xã hội. Và mỗi học sinh là một công dân tốt của tổ quốc thân yêu. Đất nước đang chờ sự trưởng thành của các em.”
Lễ “Tri ân và trưởng thành” được tổ chức trước kỳ thi tốt nghiệp cũng là điều kiện để mỗi học sinh bày tỏ sự thành kính tri ân của mình, qua đó phấn đấu đạt kết quả tốt nhất trước kỳ thi tốt nghiệp và là hành trang, là vốn sống trong cuộc hành trình “Học tập và lập nghiệp” sau này.
Vũ Luân

Read more...

Hội thảo liên trường trong công tác giáo dục

Theo kế hoạch giáo dục của phòng đào tạo Tp Pleiku trong việc giao lưu và trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Sáng 17/4 trên địa bàn Tp Pleiku đã diễn ra hội thảo liên trường. Hội thảo được chia thành 8 cụm với 33 trường Tiểu học trong địa bàn thành phố tham dự.
Các tiết dạy như Toán, Địa Lý, Tự nhiên- Xã Hội được chuẩn bị trên giáo án điện tử, được các học sinh chăm chú theo dõi. Với những hình ảnh sinh động và trực quan, qua đó có thể giúp học sinh tiếp thu bài nhanh so với cách giảng bài thông thường.
Thầy Phan Thế Kỵ hiệu trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng cho biết:
“Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy hiện nay là nhu cầu cần thiết đối với các trường học, một số trường nhất là các trường THCS đã làm từ lâu rồi, hiện nay một số trường tiểu học mới tiến hành làm. Hôm nay trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đầu tiên tổ chức dạy giáo án điện tử, chắc chắn khi áp dụng CNTT vào dạy đối với các cháu Học sinh tiểu học thì hiệu quả thì chất lượng sẽ cao hơn vì có những hình ảnh phong phú và bớt các thao tác giáo viên ghi bảng, đó là lợi ích trước mắt mà tất cả các giáo viên đều công nhận”
Sau buổi thao giảng, giáo viên các trường tiểu học họp và rút kinh nghiệm, để mỗi giáo viên có thể áp dụng công nghệ trong quá trình giảng dạy tại trường.

Vũ Luân

Read more...

Nối vòng tay lớn

Tối 14/ 4 tại trường Cao Đẳng sư phạm Gia Lai (CĐSPGL) diễn ra hoạt động văn nghệ do Trung tâm bảo trợ xã hội và khoa Anh văn trường phối hợp tổ chức.
Đến dự chương trình giao lưu, có các đồng chí thuộc ban hậu cần bộ tư lệnh Cảnh sát cơ động, Ban giám hiệu nhà trường, 100 Sinh viên trường CĐSP, và đặc biệt hơn 60 em đến từ trung tâm bảo trợ xã hội.
Những gương mặt, hoàn cảnh khác nhau đã về và tụ họp lại với bao ước mơ và khác vọng, em Kpui Dua cho biết
“ Gia đình em có 7 người, ba mẹ em mất sớm khi em còn nhỏ, vì cuộc sống gia đình khó khăn bác đã chuyển em đến trung tâm bảo trợ, đến nay em đã ở trung tâm gần 8 năm. Khi tham gia chương trình em rất vui, em hy vọng chương trình này sẽ nhân rộng hơn, sau chương trình này em sẽ cố gắng học tốt trở thành con ngoan trò giỏi và có ích cho xã hội vì đất nước luôn cần những con người nhân tài”
Các tiết mục văn nghệ do các em có hoàn cảnh khó khăn biểu diễn tạo nên sức sống mới cho buổi giao lưu, qua đó giúp các em có thêm nghị lực hơn trong cuộc sống. Kết thúc buổi giao lưu số tiền thu được gần 5 triệu đồng sẽ trao tặng cho các em tại trung tâm. Với những hoạt động mang ý nghĩa, đoàn trường CĐSP luôn là đơn vị đi đầu trong toàn tỉnh về các hoạt đông xã hội, với nồng cốt là đoàn viên thanh niên.
Đ/c Lê Thanh Nga bí thư liên chi đoàn trường cho biết :
“Thông qua chương trình mình muốn kêu gọi sự đóng góp lâu dài ví dụ như các bạn Sinh viên có thể dạy Tiếng anh cho các em, có thể dạy nhạc, dạy họa. Mình mong muốn sau này có nhiều người sẽ đến với các em và cuộc sống các em được quan tâm không chỉ mặt vật chất mà cả về tinh thần.”


Vũ Luân

Read more...

Triển lãm tem Bưu Chính “ Miền trung- Tây Nguyên”

Triển lãm tem Bưu Chính “ Miền trung- Tây Nguyên” Lần thứ IV Tại Gia Lai.
--------&&---------

Sáng ngày 7/5/2010, tại cung văn hóa Lao động Lễ khai mạc triển lãm tem Bưu chính “ Miền Trung- Tây Nguyên” lần thứ IV,đã được tổ chức.
Đến tham dự triển lãm có 44 nhà sưu tập tem, thuộc các hội tem đến từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Kon Tum, Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Gia Lai, với 50 bộ và 180 khung. Với chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, triển lãm lần này kéo dài trong 3 ngày từ ngày 7 đến ngày 9/5/2010. Số lượng tem tại triển lãm tập trung giới thiệu về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu; công cuộc lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, thành tựu Cách mạng qua các thời kỳ, đất nước và con người Việt Nam.
Trên nền tảng từ những con tem Bưu chính, cùng với trí tuệ và sáng tạo của hội viên, đã tạo nên những bộ sưu tập đầy ý nghĩa, được trưng bày tại triển lãm có tác dụng giáo dục và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân.
Ông Vũ Văn Tỵ Phó chủ tịch Hội tem Việt Nam nói.
“Có 33 hội tem trong cả nước với 8000 hội viên, hơn 20.000 người tham gia các hoạt động sưu tập tem. Họ sinh hoạt ở gần 300 câu lạc bộ thuộc các nhà văn hóa, nhà thiếu nhi. Đối với các em trong trường học đây cũng là hoạt động chơi mà học, học mà chơi. Bởi vì bộ sưu tâp do các em làm hoặc cha anh làm, nó chứa đựng những bài học hết sức sâu sắc về truyền thống về lịch sử về Việt Nam đất nước con người. Hay nó mang một phạm trù sâu hơn đó là học tập nhân cách Hồ Chí Minh, học tập về quá trình tiến trình của Cách Mạng Việt Nam.”
Triển lãm tem khu vực “Miền Trung- Tây Nguyên” lần thứ IV cũng là hoạt động, thiết thực chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, hướng tới kỹ niệm 120 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nôi.

Vũ Luân

Read more...

Thứ Ba, 2 tháng 3, 2010

Ký sự du xuân: Non thiêng Yên Tử, kỳ 1

Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Ðại Việt thuở trước, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Du khách đến lễ hội chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương tôn giáo giữa thiên nhiên hùng vĩ. Xuất phát
Xe chúng tôi bắt đầu rời khỏi Hà Nội từ 12h trưa lên đường hành hương về chốn tổ Phật giáo. Vì nghe các vị tiền bối đi trước có nói rằng đi đêm cho đỡ tắc đường nên chúng tôi quyết định chọn giờ khởi hành khá oái oăm như thế này.
Qua hơn 3 tiếng đồng hồ xe chạy liên tục, chúng tôi cũng đến được thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Đến đây, chỉ cần nhìn qua cửa kính ô tô ra đằng xa bạn đã có thể thấy trùng trùng điệp điệp những núi non hùng vĩ, những rừng già lâu năm, mây và núi quyện vào nhau tạo nên một vẻ đẹp có một không hai trên đất nước này.
Thêm khoảng vài chục km đường núi nữa, và kia chính là núi Yên Tử, ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam. Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi... Đứng ở độ cao 1068m, trên đỉnh núi, ta có thể bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa xa là dòng xông Bạch Đằng cuộn sóng. Dọc con đường hành hương, đến chân núi là suối Giải Oan ngoằn ngoèo lượn khúc, nước trong vắt chảy róc rách qua những viên đá bóng nhẵn.


Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn. Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân và đạo sĩ An Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây, ông đặt tên cho nơi này là “An tử”.
Nhưng Yên Tử thật sự trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng của Việt Nam đó là phái Thiền Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh: Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), ông đã cho đổi tên nơi đây thành “Yên tử” và xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tục truyền xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con trai là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Phật. Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã khuyên ông trở về cung gấm, nhưng không được nên họ lao mình xuống suối tự vẫn . Vua Nhân Tông thương cảm cho họ nên lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó chùa và con suối mang tên là Giải Oan.
Không chỉ vậy, “Yên Tử” là một quần thể di tích có nhiều chùa, tháp, am. Tiếng tụng kinh, gõ mõ và chuông chùa khiến tâm hồn thư thái, hết mỏi mệt. Chùa Hoa Yên, am Ngọa Vân, chùa Một Mái, Bảo Sái, Vân Tiên... là những mốc quan trọng, đánh dấu một phần thành công của du khách thập phương trong hành trình gian nan lên đỉnh núi cao 1.068 m.
Trời chuyển về chiều nên đoàn chúng tôi đã thấm mệt, mọi người quyết định chọn phương thức đi cáp treo để nhanh chóng lên đến chùa Hoa Yên và dừng lại nghỉ ngơi. Bản thân tôi thì có hơi tiếc một chút, vì nghe nói rằng nếu đi cáp treo bạn sẽ bị bỏ qua một số (thậm chí là nhiều) địa danh trên đường lên đỉnh núi, nhưng thôi vì lỡ đi theo đoàn rồi, nên tôi đành mua vé cáp treo khứ hồi 2 chặng cho đỡ “lạc đoàn”.
Tăng tốc
Trước khi lên cáp treo, chúng tôi còn kịp đi qua dốc Voi phục, chuyện xưa kể lại rằng khi vua Trần Anh Tông lên thăm chùa Hoa Yên - nơi tu hành của Trần Nhân Tông, ngài đều phải xuống kiệu leo bộ lên chùa nên đàn voi thường phục lại chờ vua ở nơi đây.
Bên cạnh dốc Voi phục là Hòn Ngọc, trên đỉnh có nhiều tháp và mộ, vôi lở gạch rêu. Đó là nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vị sư trụ trì chùa Yên Tử.
Tiếp đó là ngôi tháp Huệ Quang, là tháp của Ngự Giác hoàng Trúc Lâm - Trần Nhân Tông. Tháp có 6 tầng, cao 10m làm bằng đá. Tầng thứ 2 của tháp đặt tượng thờ Trần Nhân Tông được coi là tác phẩm điêu khắc có giá trị nhất ngày nay, được làm bằng đá cẩm thạch, chạm trổ những đường nét mềm mại.
Pho tượng đạt trình độ điêu khắc cao, toát lên những nét điềm đạm phúc hậu của những bậc siêu phàm giải thoát. Sự kết hợp hài hòa của cụm tháp với cây cối xung quanh, đặt biệt là những cây tùng cổ to lớn toả bóng xuống Tháp vị tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm u trầm, đồ sộ, tạo cho du khách có một tấm lòng thành kính.
Sau đó chúng tôi lên cáp treo để tiếp tục hành trình tìm nơi trọ lại qua đêm giữa chốn sơn cước này. Hệ thống cáp treo hiện đại vượt quãng đường trên 1,2 km lên tới độ cao 450 m gần chùa Hoa Yên. Tuy nhiên chúng tôi vẫn còn gần 200m đường núi nữa mới có thể tiếp cận ngôi chùa Hoa Yên.
Chùa Hoa Yên nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Trước chùa là cây đa già cỗi, khẳng khiu. Phía sau chùa Hoa Yên du khách có thể ghé thăm vết tích của chùa Phổ Đà. Thêm vào thì có những ngọn tháp được xây bằng gạch men xanh nhưng đã bị sụp đổ nay chỉ còn một hòn gạch hình đầu sư tử làm di tích cho vẻ đẹp của tháp khi xưa.
Từ chùa Hoa Yên men theo sườn núi tới Am Thiền Định được coi là nơi vua Nhân Tông ngồi thiền khi xưa. Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này sẽ là đích của chuyến đi: chùa Đồng, ngôi chùa tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m.
Theo: Vzone

Read more...

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2010

Những lời chúc năm mới "speak year best wishes "

Mỗi dịp Tết đến Xuân về, hẳn mỗi chúng ta đều nhận được rất nhiều lời chúc Tết qua điện thoại, blog, email... Không biết mọi người thì sao? Còn tôi thì vừa thích nhận được những lời nhắn chúc Tết đọc thấy hóm hỉnh, vui vui (dù biết đây là những lời chúc gửi ai cũng được, thường thì người gửi copy lại của người khác và gửi cho mình, nhưng dù sao như vậy thì chí ít người ta cũng nhớ đến mình); lại vừa mong muốn nhận được những lời chúc tình cảm riêng tư mà người chúc viết riêng cho mình, chỉ mình mới cảm nhận được hết cái ý vị của nó!
Sưu tầm một số lời chúc hay hay gọi là làm quà chúc Tết chung cho mọi nhà:
Những lời chúc đã quen thuộc:
- Kính chúc Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc kính chúc đồng chí và gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang, thịnh vượng!
- Chúc bạn có 1 bầu trời sức khỏe, 1 Biển cả tình thương, 1 Đại dương tình bạn, 1 Điệp khúc tình yêu, 1 Người yêu chung thủy, 1 Sự nghiệp sáng ngời, 1 Gia đình thịnh vượng.
- Chúc cả gia đình bạn vạn sự như ý, Tỉ sự như mơ, Triệu triệu bất ngờ, Không chờ cũng đến!
- Năm mới Tết đến. Rước hên vào nhà. Quà cáp bao la. Mọi nhà no đủ. Vàng bạc đầy hũ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai. Sum vầy hạnh phúc. Cầu tài chúc phúc. Lộc đến quanh năm. An khang thịnh vượng!
- Chúc một năm mới vui vẻ, 12 tháng sức khoẻ, 52 tuần thành công, 365 ngày hạnh phúc, 8.760 giờ tốt lành, 525.600 phút may mắn, 31.536.000 giây như ý...
- Đong cho đầy hạnh phúc - Gói cho trọn lộc tài - Giữ cho mãi an khang - Thắt cho chặt phú quý...
- Hoa đào nở, chim én về, mùa Xuân lại đến. Chúc nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc...
- Cung chúc tân niên, Sức khỏe vô biên, thành công liên miên, hạnh phúc triền miên, túi luôn đầy tiền, sung sướng như tiên.
- Today 3 people ask me about you. I gave them your details and contact. They’ll be finding you soon. Their names are Happiness, Wealth and Love. Cheers - Happy New Year”. (Hôm nay có 3 người hỏi tôi về bạn và tôi đã giúp để họ tìm đến với bạn ngay. Tên của 3 người ấy là Hạnh phúc, Thịnh vượng và Tình yêu".
Những lời chúc ngắn gọn, nhẹ nhàng:
Năm mới thái độ yêu đời mới!
- Chúc các bạn nhiều lý do để vui vẻ năm tới!
- Chúc bạn luôn vui vẻ, bình an và hạnh phúc trong năm mới!
Chúc nhau bằng thơ, câu đối:
- Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà. Vài lời cung chúc tân niên mới. Vạn sự an khang vạn sự lành
- Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu sài . Gia đình hạnh phúc bè bạn quý. Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.
- Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN, Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG. Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC, Công thành danh toại chúc VINH QUANG..- CUNG kính mời nhau chén rượu nồng CHÚC mừng năm đến, tiễn năm xong TÂN niên phúc lộc khơi vừa dạ XUÂN mới tài danh khởi thỏa lòng VẠN chuyện lo toan thay đổi hết SỰ gì bế tắc thảy hanh thông NHƯ anh, như chị, bằng bè bạn Ý nguyện, duyên lành, đẹp ước mong
- Cung chúc tân niên một chữ nhàn. Chúc mừng gia quyến đặng bình an. Tân niên đem lại niềm Hạnh Phúc. Xuân đến rồi hưởng trọn niềm vui
- Tui cũng xin chúc bà con Đàn ông lủng lẳng hai hòn còn nguyên Đàn bà thêm đẹp, nhiều duyên Trẻ con nho nhỏ có tiền ăn chơi!
Những lời chúc vui vui:
- Chúc ông bà 1 tô như ý. Chúc cô chú 1 chén an khang. Chúc anh chị 1 dĩa, 1 dĩa...tài lộc!
- Giao thừa sắp đến.Chúc bạn đáng mến. Sự nghiệp tiến lên. Gặp nhiều điều hên!
- Chúc năm mới: 1 vợ, 2 con, nhà 3 tầng, xe 4 chỗ!
Chúc cho năm 2010 Mừng 2010 phát tài phát lộc/ Tiền vô xồng xộc, tiền ra từ từ/ Sức khoẻ có dư, công danh tấn tới/ Tình duyên phơi phới, hạnh phúc thăng hoa/ Xin chúc mọi nhà một năm ĐẠI THẮNG!
:•.(¯`°´¯).• ¤*•,¸.¸,¤*•,¸.¸, •*¤*•,¸.CHÚC MỪNG NĂM MỚI,•*¤*•,¸.¸, •*HAPPY•*HAPPY NEW YEAR *•,¸.¸,•*¤*•,¤*•,¸.¸ ,•*¤*•,¸.,•*¤*•,¸.¸, •*?,•*¤*•,¸.,•*¤*•,¸ .¸,•*?*¤*•,¸.¸,•* ..^^..

Aryan® "s

Read more...

Chương trình truyền hình

Qùa tặng âm nhạc "Nhớ mẹ yêu"

Chương trình Truyền Hình

Chương trình Truyền Hình

Mùa Hè Xanh 2008

Mùa Hè Xanh 2008


  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP