Thông tin mới nhất: Phương pháp làm Phóng sự điều tra

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

I>  Đặc điểm các loại hình Sân Khấu.
Sân khấu là một loại hình NT tổng hợp, được trình diễn trên một sàn diễn, bản chất của SK rất phong phú và đa dạng, nhưng cái chung nhất đó vẫn là sự khắc họa, miêu tả và dự báo của đời sống xã hội từ trong quá khứ cho đến hiện tại và cả tương lai. Có thể thấy sự phong phú đó qua các thể tài- thể loại, nội dung- hình thức, trừu tượng- hiện thực, truyền thống- hiện đại…và đa dạng về thủ pháp và đặc thù nghệ thuật.
Sự phong phú sắc màu NT dân tộc SK bao trùm ở các loại hình và thể tài của nó: VD Tính chung nhất của thể tài là “bi”, nhưng từng loại hình có sắc thái:
bi hài (Chèo),
bi hùng (Tuồng), 
bi ai (Cải lương).
            Như vậy Sk truyền thống là NT biểu diễn được kết tinh từ những sáng tạo của cả một nền dân tộc, trong đó nền VHNT, là tư tưởng và tinh thần của dân tộc đó được biểu đạt qua các loại hình sau:
            NT Chèo: Chèo là loại hình NT SK  dân tộc chính thống. Đặc điểm NT của chèo mang thể tài bi hài, trình thức Sân đình, sân khấu trực khách. Nội dung tư tưởng phê phán vua chúa , địa chủ quý tộc và những thói hư tật xấu của xã hội.
Chèo có cốt chuyện giàu kịch tính, hấp dẫn với những đoạn thắt nút, mở nút gây bất ngờ.     Đặc điểm nỗi bật của chèo là anh hề, ăn nói bồn bã, có quyền trêu chọc mọi loại người như một van xả hơi cho những bức xúc trong tâm lý quần chúng và 2 yếu tố bi hài quyện vào nhau  Trong đau thương có tiếng cười và sau tiếng cười chứa đựng những cảnh đau thương.” Ngoài ra chèo là SK trực cách.
            VD: Một số trích đoạn tiêu biểu Thị Mầu lên chùa và xã trưởng- Mẹ Đốp (Vở Quan Âm Thị Kính), tư tưởng của vở diễn là tư tưởng Phật giáo và tác phẩm này đã phê phán những thói hư tật xấu của xã hội Phong kiến. Ngoài ra các tác phẩm chèo tiêu biểu khác như Súy Vân giả dại (Vở Kim Nham), Đánh ghen (Vở  Tuần ty Đào Huế), Trương Viên, Tấm cám…đã trở thành kinh điển cuayr nghệ thuật chèo.
            NT SKTuồng: Tuồng được xem là loại hình SK dân tộc nhưng ở cấp độ bác học. Đặc điểm Tuồng hay còn gọi là hát bội được sinh ra trong Cung đình, tồn tại trong cung đình, lớn lên trong cung đình, để phục vụ các lễ lạc lớn người ta thường dùng hát bội- Hệ thống âm nhạc của hát bội cũng rất chặc chẽ gồm 50 dụng cụ gồm Tứ tuyệt Bộ gõ, bộ kéo, bộ gãy, bộ kèn.
            Là thể tài  bi hùng, trình thức Cung đình, Nội dung ca ngợi những anh hùng, các đấng trượng phu, quân tử, đề cao nghĩa khí.
            Vd: Tác phẩm tiêu biểu: Sơn Hậu, Hồ thạch phủ, đặc biệt vở tuồng Tam nữ đồ Vương có nhiều tình tiết gây cấn, hình tượng đẹp văn chương điêu luyện, nhiều đoạn diễn có giá trị nghệ thuật cao. Còn có loại “tuồng hài” đậm tính dân gian như vở Ngêu, Sò, Ốc, Hến,
            NT SK Cải Lương: Là loại hình được tổng hợp từ nhiều bộ môn Nghệ thuật khác. Đặc điểm của Cải Lương thuộc thể tài bi ai, không có trình thức, mà chỉ có thị hiếu rộng rãi từ thành thị đến nông thôn và các tầng lớp người dân đều thưởng thức được.
            Cải Lương mang đậm tính tự sự, trữ tình và lãng mạn, trong đó nhạc tài tử Nam bộ được xem là nền tảng, linh hồn của vở diễn.
Vd: Tác phẩm Cải lương  Lan và Điệp, Lưu Bình Dương Lễ…

II> Đặc điểm của Kiến trúc.
            Kiến trúc là một bộ môn khoa học,  là một loại hình NT xuất hiện sớm trong lịch sử loại người. Kiến trúc có ý nghĩa thực dụng rất rõ nét một mặt nó là lĩnh vực tinh thần thuộc sáng tạo NT và lĩnh vực vật chất thuộc sáng tạo sx vật chất. Trong bất cứ công trình KT nào cũng cần có những yếu tố sau: Yếu tố Công năng đó là mục đích đầu tiên quan trọng nhất đối với một công trình KT, yếu tố Kỹ thuật- vật chất và yếu tố kỹ thuật. Những yếu tố này liên hệ chặc chẽ với nhau, tùy mục đích, tính chất, đặc điểm mà có những yêu cầu cao thấp khác nhau.
            Một tác phẩm kiến trúc mang một số đặc điểm sau.
            Kiến trúc là tổng hợp giữa khoa học kỹ thuật và nghệ thuật: một công trình kiến trúc dựng lên phải đáp ứng được yêu cầu sử dụng, phải ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thỏa mãn yêu cầu kinh tế và thẫm mỹ.
Đặc trưng của công trình kiến trúc được xây dựng luôn mang tính ứng dựng thưc tiễn, trong đó tính năng phục vụ lợi ích có ý nghĩa mục đích, tính năng thẩm mỹ mang ý nghĩa hình thức. Cho nên hình tượng của Kiến trúc là tính ứng dụng thực tiễn, mặt khác cái đẹp về hình thức kết hợp với cái ích của vật chất- tinh thần phản ánh tư tưởng chung về sự khẳng định cuộc sống, về tầm vĩ đại của tư tưởng nghệ thuật Kiến trúc.
Kiến trúc phản ánh xã hội và mang tính tư tưởng: Tác phẩm KT tạo nên một hình tượng khái quát, súc tích về một xã hội nhất định qua từng giai đoạn lịch sử. Trong các chế độ khác nhau của lịch sử đều có một nền KT khác nhau.
 Khi nói đến công trình KT Việt Nam là nói đến Đình, Chùa, Miếu luôn mang bản sắc riêng, với các gia trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo
VD: Công trình kiến trúc chùa: là công trình hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, không phát triển theo chiều cao (trừ các bảo tháp), để gây ấn tượng như các đền đài Ấn Độ, tạo ra sự ấm cúng đối với khách thập phương đến thăm như Chùa Nhất Trụ được dựng từ thời Lê Đại Hành, Chùa một cột, Chùa Phật Tích, Chùa Quang Nghiên, Chùa Kim Liên, Chùa Tây Phương
Kiến Trúc chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên và khí hậu: KT vì mục đích công năng và thẫm mỹ không thể thoát được  những ảnh hưởng của hoàn cảnh thiên nhiên, môi trường địa lý và điều kiện khí hậu. cho nên bố cục không gianKiến trúc hình khối, màu sắc, vật liệu….ở từng vùng là khác nhau.
Kiến trúc mang tính dân tộc:  Tính dân tộc thường được phản ánh rõ nét qua công trình KTvề nội dung và hình thức:
Về nội dung: Bố cục mặt phẳng phải phù hợp với phong tục tập quán, tâm lý, dân tộc, phải tận dụng được các yếu tố thiên nhiên và khí hậu, địa hình, vật liệu...
Về hình thức: Tổ hợp hình khối mặt đứng, tỉ lệ, chi tiết trang trí, màu sắc, vật liệu phối hợp được thỏa mãn nhu cầu thẫm mỹ của các dân tộc.
VD: Công trình kiến trúc tiêu biểu mang âm hưởng dân tộc: Ở khu vực Tây Nguyên thì nhà Rông là biểu tượng về không gian tinh thần của đồng bào dân tộc miền núi. Khu vực Nam Trung bộ công trình kiến trúc Tháp chăm thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm phản ánh đời sống tâm linh của dân tộc này qua nhiều Tk.
III> Đặc điểm của Điêu khắc.

Đặc điểm của ĐK: đều mang một đặc điểm quy ước về mặt khuôn khổ và những đường nét giống nhau, nhưng mang tính tư tưởng là quan trọng nhất và đặc biệt ĐK Việt Nam luôn mang trong mình những  đặc thù là khi tính tư tưởng được đẩy lên cao cho nên các tác phẩm Đk đều mang tính sử thi của dân tộc. Qua đó hình tượng của ĐK dù ở chất liệu nào cũng phải biểu đạt được nội dung mà tác giả thổi hồn vào đó. Cái biểu đạt cơ bản là những hình khối (kiểu cỡ) và đường nét (tính chất thể hiện).
Điêu khắc gồm 3 thể loại: Đại, Trung, Tiểu và 2 loại tính chất: Trực quan sinh động và điêu khắc tư duy triều tượng..
Nghệ thuật Điêu khắc Việt Nam, tuy ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới và quy mô có phần khiêm tốn hơn nhưng luôn có những thành tựu đáng tự hào; đó là dáng vẻ, bản sắc rất riêng. Điêu khắc Việt Nam không có những tác phẩm lớn thể hiện dấu ấn nhưng lại phong phú đa dạng về mô típ, có biến cách trong quá trình lịch sử và mang tính truyền thống sử thi của dân tộc. Tính sử thi trong điêu khắc mang tính chủ đạo và là tư tưởng cao nhất của dân tộc, thể hiện tính tư tưởng vĩ đại.
VD: Các tác phẩm điêu khắc nổi tiếng như: Bộ tượng Bát Bộ Kim Cương ở trong Chùa Mía (Sơn Tây, Hà Nội) cũng thuộc một trong số những tác phẩm điêu khắc truyền thống Việt gây ấn tượng. Ngoài ra còn nhiều môtíp ước lệ khác dùng trong điêu khắc trang trí (long, lân, quy, phượng), cá (mây, trúc) hóa rồng, sư tử hí cầu, ngũ hổ, ngũ phúc, tứ quý (mai, liên, cúc, trúc) các cặp mai- điểu, liên- áp, cúc- điệp, tùng- hạc, quy- hạc, nho- sóc. Những môtíp trong đó phản ánh sự tương thích hài hòa giữa các yếu tố thiên nhiên, nghệ thuật vị nhân sinh và tính ứng dụng thực tiễn đời sống.
 Hầu hết các tác phẩm Đk nổi tiếng của Việt Nam đều thuộc loại hình mỹ thuật tôn giáo trước hết là các tác phẩm tượng Phật và bồ tát. Những tác phẩm ĐK Việt Nam  không có các tác phẩm lớn như trên thế giới nhưng ĐK Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống lịch sử và tính sử thi của dân tộc qua từng giai đoạn.
4. Tranh yêu thích nhất của Việt Nam là tranh nào? Tại sao.
Tranh Sơn Mài là tranh được yêu thích nhất và được thế giới ưa chuộng. Bởi vì tranh Sơn Mài luôn đóng một vị trí và vai trò hàng đầu về chất liệu truyền thống trong nền hội Việt Nam. Đến với thế giới tranh Sơn Mài của Việt Nam cũng được chú ý đặc biệt vì nó có sắc thái riêng biệt và biểu hiện tính dân tộc đậm nét.
Những bức tranh Sơn Mài khi hoàn thành phải đòi hỏi rất nhiều chất liệu phong phú: nhiều loại bột màu,  vàng lá, bạc lá,…Nhưng chất liệu truyền thống không thể thiếu là sơn. Bức tranh khi hoàn thiện sẽ mất rất nhiều thời gian hàng tháng, hàng năm hoặc có thể nhiều năm. Họa sĩ phải mài đi, mài lại bức tranh nhiều lần cho thật phẳng. Sơn được vẽ nhiều lớp thì khi mài màu sắc hiện lên mới đẹp, huyền bí và lộng lẫy.
VD: Bảng màu sơn trong tranh sơn mài có rất nhiều loại nếu chú ý ta sẽ thấy khả năng và tính ưu việt của từng loại sơn như: sơn then đen bóng, sâu thẫm đến vô cùng. Sơn cánh gián trong veo óng ả như: Các tác phẩm “Hẻm phố của Lê Ngọc Linh”,  Mùa đông sắp đến của danh họa Trần Văn Cẩn”, “ Vườn Xuân, Tác nước chống lụt, Thiều nữ bên cây phù dung của  danh họa Nguyễn Gia Trí”.

Đặc biệt người vẽ tranh Sơn Mài luôn vẽ theo ngẫu hứng, theo tình cảm xuất phát từ lòng mình. Những rung động trong lòng mình như thế nào thì vẽ tranh như thế ấy, không theo quy luật nào cả. Chính vì thế mà hồn tranh Sơn Mài của Việt Nam trở nên sâu lắng và biểu hiện đậm nét đời sống của nhân dân hay truyền thống của dân tộc.
Ngoài ra Tranh Sơn Mài mang đậm tính chất thủ công và truyền thống thể hiện con người Việt Nam cần cù, kiên nhẫn, mang tính rất riêng của Việt Nam có giá trị về tính truyền thống của dân tộc. Về mặt nghệ thuật  là sự tổng hòa giữa yếu tố nghệ thuật và thủ công. Cho nên Tranh Sơn Mài Việt Nam đã, đang và luôn đóng góp vào vườn hoa nghệ thuật lớn của thế giới một bông hoa là và rất độc đáo thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc Việt.
 

5. Điện ảnh Việt Nam ra đời khi nào? Ý Nghĩa ra đời của phim truyện Việt Nam.
Điện ảnh Việt Nam ra đời trong khi đất nước đang chiến tranh bị thực dân thôn tính muốn đồng hóa dân tộc ta về VHNT, chúng mang theo cả một hệ thống văn hóa (báo chí, in ấn, phim ảnh, sân khấu…) để phục vụ công cuộc khai thác, “khai sáng thuộc địa” của chúng. Trong đó, loại hình nghệ thuật điện ảnh xuất hiện đồng thời cùng với hệ thống văn hóa mà thực dân mang theo.
Cảnh trong bộ phim "Chung Một Dòng Sông"
Theo một tờ báo đáng tin cậy là tuần báo Nam Kỳ xuất bản tại SG vào những năm 1898-1899: “Điện ảnh du nhập vào Việt Nam  chậm nhất là cuối tháng 9 – đầu tháng 10 năm 1898, sau Pháp 3 năm.
Theo đó, ông D’Are là một trong những người đầu tiên đưa điện ảnh vào Việt Nam và cũng có thể là người thực hiện những đoạn phim đầu tiên quay ở Việt Nam. Trong một đoạn phim có chi tiết đặc biệt là hình xe lửa chạy vô đậu tại nhà giấy Chợ Lớn. Tiếp đó là những đoạn phim quay phong cảnh tại kinh đô Huế; phong tục, hội hè, đình đám; hoặc các nhân vật thời thượng trong xã hội đương thời.
  b, Đặc điểm, ý nghĩa ra đời phim truyện VN?
Phim truyện Việt Nam bắt đầu từ vở Kim Vân Kiều không thành công (1923). Đây là một bộ phim câm, trắng đen, dài 500m, không có tính nghệ thuật cao và thất bại về doanh thu.  Đặc điểm ban đầu của phim cho thấy, cốt chuyện, bối cảnh diễn viên, là người Việt Nam; nhưng phần hậu kỳ là người nước ngoài, nên nội dung tư tưởng không được quan tâm, thậm chí nhiều phim  nhằm mục đích bôi nhọ dân tộc, ca ngợi công cuộc xây dựng của nước đại pháp tại Đông Dương.. Tiếp đến là những loạt phim quay những tiếc mục hề ngắn

Tiếp đó năm 1939 hãng “Việt Nam phim”  của ông Trần tấn giàu và “Asua Film”  của Nguyễn Văn Định ra đời, do người Việt Nam thực hiện. Nhóm “ Việt Nam phim” có sự tham gia của Khương Mễ, Đỗ Hữu Thơm … năm 1939, sản xuất được phim tài liệu “Bà Huyện Thanh Quan trên đèo ngang”, phim truyện “Một buổi chiều trên sông Cửu Long”, và “Thầy pháp râu đỏ’. Nhóm “ Asua phim” có sự tham gia của nghệ sĩ  Tám Danh sản xuất được một số phim truyện đầu tiên do người Việt Nam thực hiện từ đầu đến cuối trên đất Việt Nam nên được công chúng đón nhận như phim: “Trọn tình, Khúc khải hoàn, toét sợ ma.
3 đặc điểm ban đầu của phim Việt Nam bao gồm:
            Đặc điểm thứ nhất Buổi bình minh của ĐAVN bị lệ thuộc người pháp cụ thể như Phim Kim Vân Kiều. Cốt truyện, bối cảnh và diễn viên đều là người Việt Nam nhưng phần hậu kỳ, in lồng tiếng, thu thanh cả đạo diễn và chuyên viên làm phim đều là người nước ngoài.
            Đặc điểm thứ hai Những người làm phim VN đều là do tính tự giác, kinh nghiệm đem lại cho họ, vốn tự bỏ như hãng“ Việt Nam phim” và “Asua phim
            Đặc điểm thứ  ba Phim CM “Chung một dòng sông” đánh dấu thành công của phim truyện Việt Nam, sau hòa bình, đất nước thống nhất. Thông qua nội dung của phim đòi hỏi thống nhất đất nước, chống sự chia cắt của Đế quốc Mỹ, qua mối tình của 2 thanh niên Hoài và Vận họ tìm cách để yêu và gần nhau, phim nhắm đến HTXH CN mà đảng để ra.
Ý Nghĩa lịch sử của phim truyện Việt Nam.
Những thành tựu của ĐAVN mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, trong thời chiến những nghệ sỹ điện ảnh là những chiến sỹ đã phát huy truyền thống dân tộc cho đến ngày hòa bình và dù trong hoàn cảnh nghèo khó, khi mới thoát thai điện ảnh Việt Nam đã tự lực cách sinh bằng khả năng hiện hữu của mình để tiếp tục phát huy những bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc.
ĐACM Việt Nam mang một diện mạo mới kết hợp giữa 2 yếu tố truyền thống và hiện đại.
Trong khi Truyền thống với những thành tựu vang dội trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Điện ảnh Miền Nam được coi là một nền “Điện ảnh huyền thoại” với những bộ phim tài liệu kháng chiến do điện ảnh QK 8 xây dựng và hoàn thiện từ các khâu như in tráng, phổ biến cho nhân dân xem
VD: phim “Trận Mộc Hóa, sản xuất 1948”, “ Lễ xuất quân trung đoàn 115, trận Xa Ban, Chiến dịch Trà Vinh, Cầu Kè…”, góp phần hình thành nền điện ảnh dân tộc.
Điện ảnh bắc bộ gặp nhiều khó khăn hơn lúc này người làm Điện ảnh cũng là những người làm cách mạng tay súng, tay máy đó là hình ảnh đáng tự hào của ĐA CM Việt Nam với các bộ phim “Trận Mộc Hóa, Dân Công Phục Vụ Tuyền Tuyến
Hiện đại: Chính là tư tưởng của thời đại mới, thời cơ mới của dân tộc. Sau giải phóng điện ảnh Việt Nam tạo được diện mạo mới mà các nước trên thế giới phải mến phục về tính truyền thống của dân tộc.
VD: Bao giờ cho đến tháng 10, Cánh đồng hoang, Chị tư Hậu

6. Văn học là gì? Những loại hình liên quan đến Văn học và các chức năng của Văn học.
Văn học là ngành sử dụng ngôn ngữ và hình tượng để phản ánh hiện thực. Có thể là một truyện ngắn, môt bút ký, một bộ tiểu thuyết…
Trong đó, ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc thù của văn học. Không có ngôn ngữ thì không có văn học, bởi vì ngôn ngữ chính là điều kiện cụ thể hóa- vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tương, tính cách và cốt chuyện. Ngôn ngữ của tác phẩm Văn học là ngôn ngữ toàn dân, của đời sống xã hội được nâng lên một trình độ nghệ thuật
VD:
Hình tượng trong văn học là sản phẩm khái quát hóa từ đời sống XH, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan và các hình tượng bao giờ cùng là thành quả của tư duy sáng tạo và hư cấu của nghệ sĩ. Thông qua hình tượng đó phản ánh giai đoạn lịch sử nhất định.
VD: Tác phẩm “Tắt đèn” là cuộc sống gia đình chị Dậu và sự tàn ác, thối nát của chế độ Pk thống trị tại làng Đông Xá. Thông qua hình tượng chị Dậu bài văn đã dùng ngôn ngữ nói lên cả một chế độ phong kiến thối nát.
Những loại hình liên quan đến văn học. Trong tất cả các loại hình nghệ thuật khác đều liên quan đến Văn học, nhưng có 2 loại hình NT chính đó là Sân khấu và Điện ảnh.
Trong khi đó Sân khấu: gồm “Rối, Kịch câm, ca múa nhạc, kịch…” đều dùng đến kịch bản Văn học để khắc họa, miêu tả, dự báo của đời sống xã hội từ trong quá khứ cho đến hiện tại và tương lai và  kịch bản văn học được xem là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của loại hình này.
Vd: Các tác phẩm múa rối đặc sắc như: Vở diễn Trần Cổ Loa Thành, đặc biệt vở diễn Huyền thoại tiên rồng, nội dung của vở diễn xoay tác phẩm văn học truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ nói về truyền thuyết 54 dân tộc anh em, được sinh ra từ bọc trứng 100 con dù có người sống ở Đồng Bằng, người Miền Núi, nhưng tất cả đều có chung một dòng máu. Họ yêu thương đoàn kết vui buồn có nhau. Họ triều mến nhau và gọi 2 tiếng Đồng bào.
Điện ảnh bao gồm: “Phim tài liệu, phóng sự, khoa học viễn tưởng…” Văn học đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng cốt chuyện, lời thoại, sự sắp xếp có ý đồ của đạo diễn và tác giả để tác phẩm từ kịch bản Văn học chuyển thể thành nội dung sống động phản ánh chân thật đời sống hiện thực.
Vd: Các tác phẩm: Kim Đồng, Lửa trung tuyến, Mùa ổi…
Các chức năng của VH: Trong ĐSXH VH là một nhu cầu không thể thiếu, với tư cách là một hình thái ý thức Vh đưa con người đến sự hoàn thiện hơn, nâng cao khả năng con người trong quá trình chiếm lĩnh và chinh phục hiện thực khách quan. Vh được xây dựng trên 3 phương diện.
Nhận thức và dự báo: Khi nắm bắt được trong  đời sống tính toàn vẹn, thẩm mỹ, nhà văn thường đem vào tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó chính là một trong những yêu thế đặc thù  trong chức năng nhận thức VH.
Vd: Tác phẩm Ông gìa và biển cả- Chức năng VH còn tạo tiền đề cho chức năng dự báo phản ánh cuộc sống toàn vẹn, sinh động, vươn tới tầm cao của sự khái quát, sự vận động bên trong của đời sống xã hội hiện thực.
Thẩm mỹ và giải trí: Văn học nghệ thuật đảm nhiệm một chức năng thẩm mỹ tích cực mà không có một lĩnh vực nào có thể thay thế được. Vh đem đến cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của cuộc sống, thể hiện những khía cạnh cụ thể, sinh động, khơi dậy cho người đọc cảm xúc xã hội tích cực…Đây là khả năng đặc thù của Vh mà cái đẹp của đời sống được khám phá một cách nghệ thuật.
Ngoài ra tác dụng giải trí như một chức năng độc lập của nền văn học nghệ thuật nói chung, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư tưởng của tác phẩm, người đọc tìm thấy khoái cảm nếm trải những tình huống tâm lý, cảm xúc vốn có trong cuộc sống con người.
Giáo dục và giao tiếp: Vh có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân cách, giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng tình cảm con người. Vì vậy Văn học trở thành hình thức giáo dục tự nhiên hơn cả.Ở một khía cạnh nhất định VH còn làm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp giữa tác phẩmvà công chúng, tác giả và tác phẩm với đối tượng của mình để hiệu quả đem lại cao hơn trong việc thưởng thức các tác phẩm văn học nghệ thuật.
                                                                                                                                                   Vũ Luân

Read more...

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Phương pháp làm Phóng sự Điều Tra.
Tính chất của PSĐT thể  hiện qua nội dung của tác phẩm, thông qua việc huy động những chi tiết, số liệu, giữ kiện làm sáng tỏ cái logic bên trong thể hiện bản chất sự thật mà tác giả muốn đề cập. PSĐT thường được sử dụng khi xã hội xuất hiện những mâu thuẫn chưa có câu trả lời, hoặc có nhiều cách trả lời không giống nhau về một vấn đề có tính thời sự. Khi đó PSĐT sẽ lý giải phân tích để đưa ra câu trả lời đúng nhất, đáng tin cậy nhất.  Khởi đầu của bài PSĐT P/v phải biết mình tìm cái gì chứ không phải muốn chứng minh điều gì- Giả thuyết của P/v- cần thiết để bắt đầu công việc tìm kiếm- cần phải đối chiếu thường xuyên với các sự kiện. một cuộc điều tra nghiêm túc có thể dẫn tới một kết luận hoàn toàn chưa hề được nghĩ tới, nằm ngoài tất cả các giả thuyết ban đầu.
Vd: Tác phẩm mở đầu bài PSĐT “Tệ nạn tàn phá rừng” Với phần mở đầu tác giả đã nêu lên đỉnh cao của sự kiện, sau đó đặt vấn đề, mục tiêu lớn của bài để thu hút người đọc.
“Vườn quốc gia YôK Đôn huyện Buôn Đôn tỉnh Đăk Lăk là khu rừng đặc dụng lớn nhất của cả nước, có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế cảu khu vực Tây Nguyên và cả nước, Vườn quốc gia YôK Đôn có hệ sinh thái đa dạng với các loại động vật quý hiến như: Voi châu Á, đại bang, chim yểng… và các loại cây gỗ có gia trị cao như hương, liêm, cẩm, trắc…Nhưng thời gian gần đây, Vườn quốc gia YôK Đôn đã bị lâm tặc tàm phá nặng nề bởi lâm tặc. Nhiều cánh rừng nằm trong khu vực bảo tồn chỉ còn lại cái xác bởi việc khai thác gỗ và san bắt thú rừng đang diễn ra công khai suốt ngày đêm.”
                  Trong bài PSĐT phần thân bài là thành phần chủ chốt của tác phẩm là bộ phận trung tâm thể hiện tư tưởng chủ đề của bài viết. Vì vậy những con số, sự kiện tình huống,  con người có thật, được coi là nguyên liệu để xây dựng nên tác phẩm- cũng như gạch, đá, xi măng , cát, sắt, gỗ …để xây nên ngôi nhà. Nhưng đó mới chỉ là luận cứ, những luận cứ này phải được sắp xếp hợp lý tạo nên ngôi nhà đẹp và vững chắc, những luận cứ này đòi hỏi đáp ứng được các tiêu chuẩn như: điển hình, thời sự nóng bỏng và càng độc đáo càng dễ hấp dẫn.
           nhiều cách để viết PSĐT. Khi đề tài quen thuộc và không cần phải giải thích nhiều, cách hành văn của tin tức tường thuật được áp dụng, nhiều hay ít tùy từng đề tài và tư liệu để viết bài tươi mát và hấp dẫn. Một bài PSĐT đạt hiệu quả nếu được thể hiện một cách bình tĩnh, thận trọng và vô tư hơn là xúc động, dự trên sự thật khách quan hơn là quen biết.
         Khi thực hiện bài PSĐT thông điệp chính được coi là cốt lõi của bài viết, và được sắp xếp theo sơ đồ sau:
         Về mặt nội dung, sơ đồ này bao gồm 4 giai đoạn
         + (1) Vấn đề- (2) giả thuyết- (3) Kiển tra- (4) Kết luận.
         Hoặc (1) Tình hình- (2) nguyên nhân- (3) Giải pháp khả dĩ- (4) Giải pháp dự kiến
         Trong khi tiến hành thực hiện bài PSĐT cần trình với BBT, gặp và hỏi chuyên gia các vấn đề liên quan.
         Khi PV gặp trực tiếp những người có trách nhiệm liên quan tới bài điều tra  cần gặp những người có trách nhiệm cao nhất tại đơn vị, cơ quan để nắm tình hình, nhất là khi cần có ý kiến chính thức của cơ quan, đơn vị đó
         Gặp người trực tiếp tai nghe, mắt thấy trong từng vụ việc cụ thể để ghi nhận thêm những thông tin khác. Lời kể của họ mới có những chi tiết sinh động mà chỉ họ mới biết
         VD: tác phẩm “Rừng khóc vì thú chơi hàng độc” tác giả đã tìm đến một nhà vườn buôn bán cây cảnh được nhập từ rừng về bởi các tay lâm tặc, khi đó phóng viên nhập vai người mua hàng và điều tra được các thú chơi của các đại gia “thích chơi những cây cảnh gốc lớn vì đó vừa là “mốt” chơi cây “khủng” vì chọn những cây to, cùng nhà cao để khẳng định đẳng cấp. khi được hỏi những cây cảnh được lấy ở đâu chủ vườn liền nói ngay: “Rừng Yôk Đôn thiếu gì sợ không có sức mà mang về”. Sau cây cảnh, thú rừng được liệt vào thú chơi mê hồn, thú rừng càng đẹp, càng hiếm và nằm trong “sách đỏ” thì càng độc và vô giá. Các loại như Đại bàng, khỉ đít đỏ, chim yểng…đang trở thành hàng độc, nhiều đại gia có thể bỏ ra hàng chục triệu đồng để săn thú khủng về nhà “ nhốt chơi”Thú chơi ngông và nhiều bữa nhậu xa xỉ của các đại gia làm thú rừng đang phải khóc ròng trên núi rừng Yôk Đôn.
         Cẩn thận ghi tên họ, địa danh, số liệu…khi nghe qua lời kể đối với những người liên quan. P/v nên lịch sự yêu cầu họ đối chiếu lại vì rất có thể người kể câu chuyện cho P/v quên hoặc nhớ lộn một vài chi tiết, dù chỉ là rất nhỏ.
         Chọn thời điểm để tác nghiệp và khi hóa trang phải luôn tính đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra để tìm lối thoát khi cần thiết. Có lần, một nữ P/v xâm nhập cộng đồng gái mại dâm để viết bài PSĐT. P/v đóng giả gái mại dâm với quần áo, cách trang điểm giống hệt một cô gái bán hoa, khoảng 9h tối đứng ở góc đường Nguyễn Thông- Ngô Thời Nhiệm, Quận 3- Tp. HCM là nơi thường xuyên tụ tập của “của chị em ta” thuộc dạng bình dân. Bất ngờ có 2 thanh niên dừng xe gắn máy cạnh nữ phóng viên mới cô “đi” và hỏi giá. Đã dự kiến trước cô gái mại dâm dỏm ra giá “ hai mươi động một dù”- trong khi giá cả tại khu vực này vào thời điểm ấy chỉ khoảng “năm đồng” (50.000). Nhờ vậy, khách chê giá cao, bỏ đi tìm cô khác.
         Chuẩn bị máy móc, phương tiện, y phục lực lượng hỗ trợ…….
         Nghệ thuật giao tiếp và lợi dụng các mối quan hệ : Nếu buổi nói chuyện cần ghi âm hoặc quay video nên xin phép và nói rõ lý do. Cố biến buổi phỏng vấn thành buổi nói chuyện tâm sự. Nên lợi dụng tất cả các mối quan hệ với đối tượng, các mối quan hệ đó có thể là cùng quê, có cùng thời gian cư ngụ tại một huyện, tỉnh, con đường…để khai thác thông tin được hiệu quả hơn.
         Phương pháp nghiên cứu tại liệu, phân loại tài liệu, ghi nhận các nội dung được chưa trong tài liệu: Trong bất cứ vụ việc điều tra nào, về bất cứ vấn đề gì nên thu thập các chứng cứ càng nhiều, càng tốt các văn bản dùng làm chứng từ nếu không lấy được bản chính thì xin bản sao hoặc photocopy. Cần có xác nhận hầu tránh những  trường hợp bản sao cố ý làm khác bản chính có lợi cho cá nhân hoặc đơn vị phát hành văn bản
         Những chứng từ thu thập được có thể không đưa vào bài phóng sự ĐT, nhưng phóng viên phải giữ làm bằng chứng khi cần đến, để bảo vệ tác giả hoặc đối chấp với cơ quan chức năng.
         Ảnh hoặc băng ghi hình phải đi theo bài PSĐT cần đặc tả minh họa cho nội dung bài.
         Đánh giá, kiểm chứng, lập mã số:  Có khá nhiều cách để đánh giá, kiểm chứng thông tin  có thể qua chính người cung cấp thông tin nếu phóng viên phát hiện chi tiết không chính xác khi đang nói chuyện, tốt nhất hãy hỏi lại ngay lập tức. Qua chính nguồn phát ra thông tin, qua những người được nêu tên trong thông tin hoặc những người có liên quan.
         Quá trình thực hiện PSĐT giống như quá trình nghiên cứu khoa học theo các giai đoạn như:
         + Đặt đúng câu hỏi, câu hỏi phải thật rõ rang về môt vấn đề có thực.
         + Điểm lại kiến thức của P/v về vấn đề ấy
         + Lập các giả thuyết để tiến hành điều tra, không loại trừ bất cứ giả thuyết nào, kể cả các giả thuyết trái ngược mâu thuẫn.
         + Kiểm tra thực tế,  tại chỗ các giả thuyết (cố đến tận nơi, tìn gặp những người thật), đồng thời lần ngược về nguồn
         + Đi đến kết luận.
         Một bài điều tra đúng với tên gọi không thể khinh xuất bất cứ giai đoạn nào, nhất là giai đoạn 4, đó là kiểm tra thực tế. Vd: tác phẩm “Đột nhập lãnh địa lâm tặc” tác giả đã đi kiểm tra thực tế và ghi nhận lại hoạt động buôn bán, khai thác gỗ tại huyện xã Krông Ana, Huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk sau đó phản ánh chân thật vào trong bài PSĐT.
         Sông Sêrê Pốk mùa nước nổi, lòng sông rộng mênh mông, nhiều chỗ khúc khuỷu, nước sông chảy xiết có thể cuốn phăng bất cứ thứ gì. Ở hai bên sông lộ ra những vùng đất nham nhở, bên cạnh các tán cây lớn phủ trùm là nơi trú ngụ và vận chuyển gỗ lậu của bọn lâm tặc. Mặc cho nước lớn, mưa nguồn, lâm tặc vẫn ngang nhiên bơi lượn, thám thính trên các khúc song. Đêm về, dòng Sêrê Pốk trở nên náo nhiệt, các hoạt động vận chuyển, cưa xẻ gỗ cùng tiếng nói cười của lâm tặc làm cho không khí nơi đây nhộn nhịp hẳn lên. “Chợ đêm” tại các bến sông này diễn ra ngay từ chập tối cho tới sáng hôm sau không ngừng nghỉ, từng đoàn người cùng các phương tiện rầm rầm kéo từng khúc gỗ lên khỏi lòng sông, Mặc dù ban đêm chợ gỗ hoạt động rất rầm rộ nhưng đến mờ sáng thì bến sông chỉ còn lại xuồng máy, những mảnh gỗ bị “xẻ thịt” nằm ngổn ngang cùng nhiều vết trượt lộ ra trên mặt đất bởi những khúc gỗ bị kéo. Phải tinh mắt, chúng tôi mới phát hiện dưới lòng sông vẫn còn nhiều khúc gỗ chưa kịp vận chuyển được giấu lại.”
                  Có người coi phần kết của bài PSĐT là quan trọng nhất vì đó là mục đích chủ yếu mà tác giả muốn đạt tới, phần kết nó có thể làm tăng tính tư tưởng của bài, để lại dư âm trong lòng người đọc, thường được viết ngắn gọn, hàm súc, xoáy vào những điểm sau.
         + đề xuất ý kiến nhằm trả lời câu hỏi mà hiện thực trong bài viết mà tác giả đã đặt ra (có thể đó chính là ý kiến của tác giả, hoặc mượn lời một nhân vật quan trọng liên quan tới nội dung bài, một chuyên gia có tên tuổi mà trong lãnh vực mà bài viết đề cập đến.
Vũ Luân journalist


Read more...

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều

DẪN NHẬP
Việt Nam là một đất nước có nền văn học vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, khi thịnh vượng, lúc suy tàn, nhưng thời đại nào cũng có những nhà văn, nhà thơ uyên bác đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay. Nhiều người được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trải, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Họ đã có những tác phẩm kiệt xuất vượt lên cả mọi thời đại. Những tác phẩm của họ để lại như những di sản tinh thần làm rạng danh dân tộc Việt Nam, với nội dung và giá trị mang tính nhân văn cũng như tính giáo dục cao. Những tác phẩm đó phản ánh hiện thực cuộc sống của một giai đoạn lịch sử nào đó mà các tác giả đã sống đã thao thức và trăn trở. Sự tiếp thu những giá trị văn hóa – xã hội cũng như lịch sử và tôn giáo trong xã hội Việt Nam đã được đưa vào các tác phẩm của các tác giả ấy một cách tài tình mà khi nhắc tới người đọc phải nghiêng mình nể phục.

Trong thế kỷ XVIII cũng có một tác giả nỗi bật với tác phẩm được xem là một tuyệt tác của thi ca chữ Nôm đó là Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Không giống như tác phẩm chữ Nôm của Nguyễn Du khi viết nên Truyện Kiều phải lấy ý tưởng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc được dịch lại của Đặng Trần Côn mà Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm rất Việt Nam không dựa vào đâu cả. Nó phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII với biết bao bất công và bế tắc. Sự bất công được thể hiện qua khát vọng tự do được yêu thương được sống như bao người phụ nữ và sự bế tắc được thể hiện qua ước muốn được thoát ra khỏi cái “lồng son” của cung cấm để sống với cảnh đời “cục mịch nhà quê” của người cung nữ mà không được. Tác giả đã thông qua lời của người cung nữ nói lên tâm trạng của mình với nỗi thương cảm cho thân phận và cuộc đời phải chịu nhiều đắng cay.Với những từ ngữ Hán Việt, những điển tích và điển cố xưa trong những tác phẩm xưa của Trung Quốc tác giả đã miêu tả cuộc sống của nàng cung nữ trong cung vua với những cảm xúc thăng trầm. Cùng với những tư tưởng của đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho đã phác họa nên một tác phẩm mang đậm màu sắc hư vô trong thân phận kiếp người và cuộc đời. Chính vì vậy người viết đã chọn đề tài: “Triết lý hư vô về kiếp người, cuộc đời trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.” Đây là một tác phẩm được viết trong thời Lê-Trịnh nhưng vẫn mang màu sắc tôn giáo và chính từ đó đã nỗi bật lên triết lý hư vô về thân phận kiếp người cũng như về cuộc đời một cách tài tình.

NỘI DUNG
. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM

1.1. Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều
Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 22 tháng 3 năm 1741 (nhằm ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu), ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh.
Cha ông là Nguyễn Gia Cư, một quan võ được phong tước Đạt Vũ Hầu và mẹ là Quỳnh Liên quận chúa. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại vì Quỳnh Liên quận chúa là con gái của chúa Trịnh Cương. Ông nội là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Ông gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ ông là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Năm lên sáu tuổi, ông đã được vào học trong phủ chúa vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự. Năm 1782, ông được thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Ông là một người tài năng đa dạng, có công với triều đình nên được chúa Trịnh tin dùng và phong tước Ôn Như Hầu.Trong thời gian làm tổng binh ở Hưng Hóa, dù có công và được khen thưởng nhưng ông vẫn thường bỏ về nhà riêng ở Hồ Tây để làm thơ và bàn luận về triết học với bạn bè. Có người nói rằng chúa Trịnh không còn tin dùng ông nữa nên đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa vì thế mà ông chán nản bỏ về nhà sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả tu hành với hiệu là Như Ý Thiền. Ông còn những biệt hiệu khác là Hy Tôn Tử, Tân Thi Viện Tử và Sưu Nhân.
Ông là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học, triết học và còn tinh thông âm nhạc. Sở trường âm nhạc của ông là các bài ca, bài tán và là tác giả của bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Ông còn tinh thông hội họa và vẽ rất đẹp. Bức tranh lớn của ông là Tống sơn đồ đã dâng vua xem và được vua khen thưởng. Ông am tường cả kiến trúc và trang trí nên được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích ở Bắc Ninh. Đáng tiếc là các công trình nghệ thuật của ông đến nay không còn được lưu lại.
Sự nghiệp văn chương của ông cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao. Về thơ chữ Hán, ông có hai tập là Ôn Như thi tập khoảng một ngàn bài nhưng đến nay đã bị thất lạc. Về tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập hiện chỉ còn vài bài chép trong tập Tạy ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.[1]
Khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh vào năm 1786, ông đã ở ẩn tại miền núi xứ Hưng Hóa. Đến năm 1789, khi Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh và lập ra triều Tây Sơn vua đã mời ông cộng tác với triều đình nhưng ông cáo bệnh từ chối. Ông trở về quê cũ và sống ở đấy cho đến ngày 22 tháng 6 năm 1798 (nhằm ngày 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ) thì qua đời, hưởng dương 57 tuổi.
Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang. Không những thế tên ông còn được đặt cho các tên trường và tên đường trong một vài tỉnh thành trên đất nước Việt Nam.
1.2. Nội dung và ý nghĩa tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát[2]. Đây là một bài ca ai oán cho thân phận của một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua ân sủng, yêu thương thắm thiết nhưng chẳng bao lâu lại bị bỏ rơi. Ông đã dùng ngòi bút của mình với lối văn độc thoại để giải bày tâm trạng đau đớn của người cung nữ khi bị nhà vua ruồng bỏ. Nàng ý thức rõ được phẩm chất và tài năng của mình nên lặng lẽ tố cáo cuộc sống xa hoa phe phởn của vua chúa đã biến người phụ nữ thành món đồ chơi để thỏa mãn dục vọng một cách vô đạo. Sống trong cung cấm với nỗi cô đơn, tù túng nàng muốn thoát ra ngoài để trở về với cuộc sống “cục mịch nhà quê” của ngày xưa nhưng nàng vẫn bị giam cầm với bao nỗi niềm chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao được sự ân sủng nhỏ nhoi của vua như ngày nào nhưng đó chỉ là một ước mơ đầy tuyệt vọng. Và nàng nhận ra cõi đời này chỉ là những phù du, hư vọng, không thật như vừa tỉnh một giấc mơ.
Cung oán ngâm khúc được xem như một bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến đã chà đạp con người thông qua là tiếng thét ai oán của một trang tố nữ tài sắc vẹn toàn và tình cảm trong sáng, cao quý mà bị ruồng bỏ. Hình ảnh cung nữ chính là nạn nhân của chế độ phong kiến mang đầy bản chất ích kỷ hẹp hòi đến vô đạo của vua chúa đã biến họ thành món đồ chơi để thỏa mãn thú tính rồi ném bỏ không thương tiếc vào quên lãng. Nguyễn Gia Thiều đã thấy được cảnh này khi lui tới trong phủ chúa nên cảm thương cho nỗi lòng của người cung nữ. Với tấm lòng nhân đạo ông đã dồn hết tâm huyết và văn tài của mình để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn đến xé lòng về cuộc đời nàng. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm không chỉ dừng lại ở đó mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn là “Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà Nho thời đại ông, đầy chán chường và mệt mỏi.”[3]
2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TRIẾT LÝ HƯ VÔ VỀ KIẾP NGƯỜI, CUỘC ĐỜI TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy bao tang thương, thăng trầm, biến đổi của cuộc sống mà chính ông là người đã sống trong những biến cố ấy. Sự bế tắc của một thời đại với những tấm bi kịch đến tê tái trên thân phận kiếp người thông qua lời của người cung nữ đã vẻ nên một bức tranh ảm đảm cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng dường như ông chỉ mượn tâm sự của người cung nữ để nói lên nỗi niềm u uất của ông và cũng là của bao nhiêu người khác phải chịu nhiều bất công dưới chế độ phong kiến. Đến khi nỗi u uất đến đỉnh điểm ông đã lãng quên tâm trạng của người cung nữ mà trực tiếp bộc lộ về suy nghĩ của mình về kiếp người, về cuộc đời với triết lý hư vô rải rác trong tác phẩm và vô cùng sắc xảo đến từng chi tiết cũng như câu chữ.
Hư vô ở đây không phải Không cũng không phải Có. Ý thức, sự suy nghĩ thì bị giới hạn trong thế giới nhị nguyên :có và không. Nếu vượt có, không, lòng không dính mắc, sẽ trực nhận được Hư Vô. Chúng ta đã quá quen thuộc và trọn tin nơi ý thức, Hư vô không phải tư duy mà được, càng tư duy con người càng sai lầm và ý thức của con người không phải là một thứ dễ tin tưởng. Theo nhà Phật khi con người chưa giải thoát thì mọi tư duy của con người vẫn bị vô minh chi phối. Tất cả mọi khái niệm đều bị giới hạn và hư vô nếu có khái niệm thì cũng không chính xác. Càng lăn xăn suy nghĩ về khái niệm càng xa lìa Hư Vô, tánh Không, Phật tính, bản thể vũ trụ. Nói chung hư vô là không có gì tuyệt đối, không thật có cũng không thật không, là hư vọng, giả hợp thoát ra hẳn tư duy của con người và hư vô nó có những biểu hiện của nó. Và trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều có mang những biểu hiện của hư vô.
2.1. Quan niệm “Đời là bể khổ” trong Cung oán ngâm khúc.
Với giọng văn gồm nhiều từ ngữ của nhà Phật, Nho, Lão, Ôn Như Hầu đã giải thích về nhân sinh, vũ trụ và cuộc đời. Ông cho rằng cuộc đời là bể khổ mê tân, con người từ khi có mặt ở cõi đời này đã là khổ:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc chào đời mà ra!” (câu 55 - 56)
Đây là quan niệm “Sinh là khổ”, một trong Bát khổ của Khổ đế mà Đức Phật đã nói trong Tứ Đế. Khổ đế là chân lý đầu tiên trong Tứ Đế, nói lên sự thống khổ của chúng sinh và “Sinh là khổ” là điều đầu tiên mà Đức Phật đề cập đến. Khi mới sinh ra con người đã là khổ rồi và nỗi khổ đó được báo trước nên tiếng kêu đầu tiên lại là tiếng khóc. Tại sao không phải là tiếng cười mà là tiếng khóc vì tiếng khóc báo hiệu sự có mặt trên cõi đời này của con người sẽ chịu nhiều nỗi khổ mà sinh là nỗi khổ đầu tiên mà con người phải gánh chịu. Cùng quan điểm đó, Nguyễn Công Trứ cũng có câu:
Thoạt mở mắt thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.”
Thật vậy, cuộc đời có vui gì đâu mà cười, chính vì không vui nên mới phải khóc lúc sinh ra chứ. Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm Phôi pha cũng có đoạn: “Thôi về đi, đường trần đâu có gì”. Đúng vậy, đường trần không có gì cả chỉ là khổ thôi, mà Đức Phật cũng đã nói: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển” và con người chỉ là cánh bèo trôi nỗi dập dền trong bể khổ ấy:
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.” (câu 67 - 68)
Bể khổ: từ Hán Việt là khổ hải. Đức Phật ví sự khốn khổ của chúng sanh mênh mông vô cùng như biển”[4]. Bến mê: bởi chữ mê tân, nhà Phật nói: sự ngờ vực ở nơi tam giới và lục đạo thì gọi là mê tân, bến lạc đường phải nhờ thuyền Từ-bi của Phật mới đưa vào đến bến được. Con người không thể định hướng cho chính mình mà chịu sự tác động của những yếu tố khách quan khác. Ôn Như Hầu ví thân phận con người như là bọt bèo để mặt cho dòng nước cuốn đi vào bến bờ vô định. Nghĩ đến thân thể mà đau đớn xót xa khi phải mang thân người. Khổng Tử cũng nói: “Ta khổ vì ta có cái thân này”, nếu không còn thân này nữa thì ta có hết khổ chăng! Chưa hẳn thế, không biết khi không còn thân nữa thì ta có hết khổ không nhưng chỉ biết rằng khi có thân thì chắc chắn là có khổ. Đau đớn hơn cả là con người không thể làm được những gì mà mình muốn nên phải cứ dằn vặt trong biển khổ đau thương:
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh” (câu 71 - 72)
Bào ảnh: là cái bọt cái bóng. Kinh Kim Cương nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ riệc như điện, ưng tác như thị quan.” Nghĩa là: Tất cả các pháp như giấc chiêm bao, như chuyện huyền ảo, như bọt nước, như bóng đèn, như giọt sương móc và cũng như ánh sáng chớp nhoáng. Ý nói những sự hiện hữu trên đời đều không được lâu bền, là giả tạm, là vô thường.[5] Dù biết đời là tạm bợ, thân là giả dối không thật, đó là đứng trên phương diện pháp tướng của nhà Phật mà nói, nhưng cái mà con người đối diện với những đau khổ cay cực của cuộc đời là có thật. Cái đau khổ đó không những người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc muốn thoát ra mà cả Nguyễn Gia Thiều cũng muốn phá tan cái vòng bức bách ấy. Sự cay nghiệt của tạo hóa đã giết chết con người hồi nào không hay:
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.” (câu 73 - 74)
Trẻ tạo hóa: bởi chữ tạo hóa tiểu nhi, trẻ nhỏ tạo hóa, đây là lời nói bỡn gọi ông trời bằng trẻ con; nó xuất phát từ điển tích ông Đỗ Thẩm Ngôn đời Đường, khi đau nặng, bọn ông Tống Chi Vấn vào thăm, Đỗ Thẩm Ngôn nói rằng: “Ngao ngán thay trẻ tạo hóa làm ta nên khổ sở thế này…”[6] Chết đuối người trên cạn: bởi chữ Lục-trầm. Lục là trên cạn. Trầm là chìm đắm, Trang tử nói: “Không thèm đi chung với đường đời gọi là chết đắm trên cạn”. Ở đây có nghĩa là không hạp với tình đời.[7]
Phải chăng, tạo hóa khéo sắp đặt cho những con người “tài hoa bạc mệnh” Ông Như Hầu đã cảm thương cho thân phận tài hoa mà phận bạc của người cung nữ. Ông cảm thương cho người cung nữ cũng chính là sự cảm thương mình vì Nguyễn Gia Thiều cũng là một người tài hoa nhưng số phận của ông cũng gặp phải sự cay nghiệt của tạo hóa. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ai oán không kém: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Đâu phải Nguyễn Du chỉ có thương cảm cho nàng Kiều mà còn thương cho chính Nguyễn Du nữa để “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa”. Ông cũng đau đớn chua chát cho thân phận con người đâu thua kém gì Nguyễn Gia Thiều khi sống trong chế độ phong kiến ở thế kỷ XVIII. Sự chà đạp con người của xã hội phong kiến cùng với sự khắc khe của tạo hóa đã làm cho con người tê tái cả cõi lòng.
Đâu chỉ có “sanh là khổ” mà trong suốt cuộc đời từ lúc trẻ cho đến lúc tuổi già con người luôn đối diện với những bức bách, những nỗi sợ hãi về cuộc sống, đã bao lần lâm vào những cảnh sống dỡ, chết dỡ, đói nghèo hoành hành, tai nạn kinh khiếp:
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ, làm nau mấy lần." (câu 59 - 60)
Đường đời còn chồng chất nhiều nỗi đắng cay cùng với bệnh tật đã hành hạ thân xác lẫn tinh thân của con người. Sự thống khổ của bệnh tật đã cắt đứt tim gan, đốt ruột, cắt da con người hằng ngày hằng giờ trong đau đớn:
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.” (câu 63 - 64)
Với hình ảnh “lửa” trong câu thơ này, Nguyễn Gia Thiều đã dựa vào tư tưởng của kinh Pháp Hoa để nói về nỗi khổ của chúng sanh bị thuê đốt trong nhà lửa của tam giới: “Tam giới bất an, do như hỏa trạch”. Ở đây, ông miêu tả sự bức bách của người cung nữ khi sống trong sự tù túng của cung cấm giống như bị thiêu đốt trong nhà lửa. Tuy nhiên sự bức bách thật sự trong tác phẩm này hàm ý nói lên nỗi khổ tâm của tác giả khi sống trong chế độ phong kiến đầy dãy những điều “chướng tay gai mắt”. Chính vì sự chán ngán đó đã làm cho con người thêm mệt mỏi. Khi mùi đời chỉ toàn là hương vị đắng cay thì còn có gì vui đâu để mà bám víu:
Mùi tục lụy dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.” (câu 105 - 106)
Sống trong cuộc đời với hàng nghìn cảnh va chạm của công việc, của các mối quan hệ với xã hội, gia đình, dòng tộc, hàng trăm lần bị sứt mẻ thân thể lẫn tâm lý đã làm tin gan con người se thắt lại. Có khi muốn chết cho mau nhưng nào được như vậy. Khổ sở nhất là trong cảnh sống không được mà chết không xong mà cứ phải chịu đựng những nỗi đau dày vò dằn xé:
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết
Hình thì còn bụng chết đòi mau !” (câu 53 - 54)
Không chết được, vậy thì phải sống. Còn sống thì phải còn tất bật với cuộc mưu sinh. Trong cuộc mưu sinh đó con người phải toan tính và chạy theo cái vinh hoa phú quý có khi đánh mất mình hồi nào không hay. Thật ra có ai biết đủ để mà dừng lại. Chính vì sự ham muốn danh vọng mà con người đã rượt đuổi nó như một chiếc bóng. Nguyễn Gia Thiều đã phê phán hóa sự phú quý là “mồi phú quý”. Phú quý ở đây chỉ là miếng mồi dành để câu những con cá mà thôi. Con cá nào đớp được mồi tưởng đâu có được một bửa ăn no ai ngờ lại mắc phải cái lưỡi câu thì thật là khốn khổ. Còn vinh hoa thì ông lại gọi là “bả vinh hoa”. Bả ở đây là một thứ bỏ đi khi ai đó đã hưởng hết những phần tinh túy rồi. Cái mà người này bỏ người khác đi tìm thì đâu có giá trị gì nữa. Đã chán chê rồi cho nên mới bỏ và cái bỏ ấy chỉ còn là cái bả mà thôi. Vậy mà cái “bã vinh hoa” ấy biết bao nhiêu người tranh giành nhưng rốt cuộc chỉ là một trò lừa bịp của tạo hóa:
Mồi phú quý dữ làng xa mã
Bả vinh hoa lừa gả công khanh.” (câu 81 - 82)
Dẫu biết là trò lừa bịp của tạo hóa nhưng con người cứ mãi mê muội không nhận ra, cứ chạy đua theo nó đến nỗi “gót chân lấm bùn” (câu 70), “tóc rụng gần hết” mới nhận ra mình chẳng được gì. Kẻ mưu cầu được thì lại tham lam muốn hơn thế nữa, còn kẻ mưu cầu không được lại đau khổ khóc than. Đây chính là “cầu bất đắc khổ” mà Đức Phật đã nói trong Khổ Đế và được Nguyễn Gia Thiều áp dụng vào tác phẩm của mình.
Tất cả nỗi khổ của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ ái mà ra. Chính tình yêu đã làm cho người cung nữ bị ràng buột. Trong giáo lý Thập nhị Nhân duyên thì chi “ái” là một trong những chi khó đoạn nhất. Trong kinh Đoạn tận ái, Phật dạy: Nếu đoạn tận ái dục thì tất cả các chi khác cũng sẽ bị đoạn tận. Nếu đoạn tận các chi trong Thập nhị Nhân duyên con người sẽ được giải thoát. Giải thoát cũng có nghĩa là con người chấm dứt mọi khổ đau. Người cung nữ đã vướng phải lưới tình cho nên mới sinh ra những phiền não:
Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa dương.” (câu 45 đến 48)
Sợi xích thằng là sợi dây đỏ hay còn gọi là dây tơ hồng. Điển này xuất phát từ của tích của Vy Cố đời Đường ở Tống-đô, đêm đi chơi mát, gặp ông già ngồi xem sách ở dưới trăng, bên có cái đãy đựng tơ đỏ (xích thằng) hỏi ông đáp rằng: Quyển sổ này chép tên tuổi, đãy đựng sợi tơ đỏ để buộc duyên phận vợ chồng người. Những người đã ghi tên vào sổ này, dù người thù hoặc ở nước khác cũng vầy nên chồng vợ. Ông này không có tên, ông xem sách dưới trăng nên gọi Nguyệt lão có nghĩa là ông già dưới trăng, hoặc có khi gọi là “Trăng già" hàm ý là Nguyệt lão. Chính dây tơ hồng của Nguyệt lão đã cột chân của người cung nữ đã làm cho nàng vướng chân không thể thoát khỏi cái vòng lẫn quẩn đến nỗi nàng muốn cần đến giọt nước cành dương của Bồ tát Quan Thế Âm làm nguội lữa ái dục trong lòng nàng để nàng được thanh thản.
Nước dương: bởi chữ Dương chi tịnh thủy, giọt nước nơi cành dương liễu. Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: có vị tăng tên Phật Đồ Trừng người nước Thiên Trúc một hôm ông Thạch Lặc mời đến nhà chơi, vừa có đứa con đau bệnh nặng. Phật Đồ Trừng lấy cành dương liễu tẩm nước phép rảy cho đứa bé đau, liền lành khỏi. Phép ấy của Phật Quan Âm có bình ngọc cắm cành dương liễu trong bình có những giọt nước làm cho chúng sanh mát dịu như có phép mầu.
Phải nói rằng nguyên nhân của người cung nữ cũng bắt nguồn từ chữ “ái” mà ra và chính nó đã làm nên biết bao nhiêu phiền muộn, bức bách. Triết lý hư vô trong Cung oán ngâm khúc khi cuộc đời là bể khổ đã in đậm trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều toát lên tư tưởng nhân đạo cảm thương cho thân phận con người qua lời oán than của người cung nữ. Ông tiếp thu khá rõ chân lý Khổ Đế của Đức Phật, tuy nhiên ông chưa tiếp thu ba chân lý khác là Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế nên màu sắc của tác phẩm mang một màu tối và tư tưởng của tác phẩm là sự yếm thế, không lối thoát.
2.2. Quan điểm về duyên sinh, vô thường và vô vi trong Cung oán ngâm khúc.
Chính vì ngán cái “tạo hóa” trớ trêu mà ông cho rằng muôn vật ở đời chỉ là hư vô, hư trụ, do duyên sinh, duyên khởi của vạn pháp mà tồn tại. Người viết tạm dùng hai từ “tạo hóa” để nói về một sự sắp đặt sẵn của mọi sự vật hiện tượng và luôn cả kiếp người. Con người tin có một đấng “bề trên” nào đó sắp đặt cuộc sống của con người và chi phối cả vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều cũng tin như thế, nhưng ông còn am tường hơn khi đem giáo lý duyên khởi của đạo Phật để giải thích cho sự tồn tại của vạn pháp nói chung và của con người nói riêng. Con người đã tồn tại trên cõi đời này theo nhân duyên hòa hợp mà thành thì vũ trụ nơi mà con người hiện hữu cũng do nhân duyên mà sinh diệt. Nhưng dù con người có tồn tại trong vũ trụ này cũng chỉ là sự ê chề, bi thương vì bị luật vô thường chi phối. Sự sanh diệt của con người sớm muộn gì cũng bị tan hoại bởi luật vô thường. Còn mọi sự vật hiện tượng trên cõi đời này cũng chỉ là giả hợp không thật có:
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.” (câu 95 - 96)
Như vậy, có gì đâu để đáng tự hào, để đáng vui trong kiếp sống phù sinh này chứ. Đó là sự bi đát nhất của vạn pháp mà con người cũng chỉ là một trong những hạt cát của sa mạc vạn pháp đó mà thôi cho nên phải chịu chung số phận sinh diệt, vô thường này. Tư tưởng này xuất phát từ Phật giáo và của Lão Trang mà Nguyễn Gia Thiều chỉ là người tiếp thu nó. Nguyễn Gia Thiều đã tiếp thu chân lý đầu tiên của đạo Phật là Khổ Đế, thuyết vô thường, thuyết duyên khởi để nâng cao nó thành tư tưởng của tác phẩm. Bên cạnh đó, ông còn tiếp thu triết lý vô vi trong Đạo Đức kinh của Lão Trang để nâng cao thành triết lý sống của mình.
Triết lý vô thường của đạo Phật và thuyết vô vi của Lão Trang trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc đã vẽ cho cuộc đời một bức tranh tang thương của kiếp người chăng? Không phải thế, hai triết lý này mô tả một cách hiện thực bản chất của vạn pháp là duyên sinh duyên khởi. Có sinh ắt có diệt đó là chân lý hiển nhiên và con người phải biết chấp nhận nó để mà sống, để mà khỏi đau khổ thêm nữa.
Trong câu 76, ông viết: “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương", vân cẩu: là mây chó, ý này được lấy trong thơ của Đỗ Phủ:
Thiên thượng phù vân như bạch y,
Tu tư hốt biến vi thương cẩu.”
Dịch
(Trên trời đám mây nổi như cái áo trắng,
Bỗng chốc hóa hình con chó xám.)
Ý nói sự biến chuyển nhanh chóng của mây. Về sau đem ví sự thay-đổi trên đời. Tang thương: tang là cây dâu, nương trồng dâu, thương là bể khơi, bãi bể. Sách Liệt Tiên truyện chép: Bà Ma-cô tiên-nữ đã nói bà từng thấy một nơi kia đám nương trồng dâu đã ba lần hóa thành bể khơi, bãi bể. Ý nói sự thay đổi nơi trần thế nhiều lần. Tang thương hay còn gọi Tang-hải-Tang-thương- Bãi bể nương dâu- Bể dâu, đều là một nghĩa.[8] Sự thay đổi biến thiên của một con người giống như nhìn một đám mây nỗi như áo trăng bỗng chốc lại hóa thành hình con chó. Biển xanh còn biến thành nương dâu thì thân người có xá gì. Theo Nguyễn Gia Thiều thời gian của một kiếp người thoáng mất qua cửa sổ: "Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi" (câu 353) còn Trịnh Công Sơn trong ca khúc Tình xa lại cho rằng: “Ôi tiếng buồn rơi đều nhìn lại mình đời đã xanh rêu”. Thật vậy cuộc sống con người thật ngắn ngủi nhưng con người đâu ý thức được đều đó. Chính không ý thức nên đã để thời gian trôi qua rất nhanh đến khi nhìn lại thì tóc trên đầu đã điểm bạc. Con người lúc nào cũng nghĩ rằng sự tồn tịa của một kiếp người là rất lâu nên nhạc sĩ Y Vân mới viết ca khúc Sáu mươi năm cuộc đời. Nhưng đối với đạo Phật thì kiếp sống của con người chỉ tồn tại trong từng hơi thở. Ở điểm này Nguyễn Gia Thiều thừa tự được tư tưởng của đạo Phật nhận biết thời gian như bóng câu qua cửa sổ rồi cuối cùng chẳng được gì ngoài nấm mồ cỏ mọc xanh rì:
Tuồng ảo hóa huyễn bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” (câu 103 - 104)
Vẫn biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả hạnh phúc trên đời chỉ là phù hoa ảo ảnh sẽ chìm đám vỡ tan như bọt bèo trong vũ trụ. Nguyễn Gia Thiều đã ví cuộc đời này là vỡ “tuồng” mà vỡ “tuồng” thì làm gì mà có thật cho nên nó mới là “tuồng ảo hóa”. Nếu cuộc đời này là vỡ tuồng thì con người là những diễn viên trong vỡ tuồng đó được sự sắp đặt của đạo diễn “tạo hóa” chứ không phải làm theo ý của mình. Đáng buồn nhất là con người giống như một con rối trong vỡ “tuồng ảo hóa” này bị người khác giật dây. Có vui hay có buồn gì đi chăng nữa cũng phải cố gắng đóng cho tròn vai diễn chứ không được quyền quyết định hay cải lại. Ngẫm nghĩ lại kiếp người mà thấy đau lòng khi nhìn lại trăm năm đi qua của một kiếp người cuối cùng chỉ là một nắm mộ bên nghĩa địa buồn mà thôi. Ý thơ này của Nguyễn Gia Thiều giống với tư tưởng của Nguyễn Du trong hai câu đầu của tác phẩm Truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Có sống qua gần hết một kiếp người thì cuối cùng nhìn lại chỉ là sự chán chường đau đớn. Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều đã gặp Nguyễn Du cùng một quan điểm. Dù có sống đến trăm năm thì chỉ là trò bể dâu mà thôi. Nguyễn Gia Thiều đã miêu tả tâm trạng khổ sở cùng cực của người cung nữ khi bị dày vò trong cung cấm. Thông qua những hình dung từ: ảo, hư, tiêu điều, đau, tang thương cũng đủ nói lên tâm trạng quặn thắt của người cũng nữ trong chốn thâm cung.
Nguyễn Gia Thiều còn xem cuộc đời này chỉ là giấc mộng: "Kìa thế tục như in giấc mộng" (câu 49). Những vần thơ trong Cung oán ngâm khúc được xem khoảng thời gian hưởng niềm vui thoáng đến rồi chợt đi giống như một giấc mộng. Những điển này được dựa vào tích của Tô Đông Pha, Trang Chu, Lý Công Tá (bài Ký Nam Kha Mộng). Ngay cả trong tình yêu cũng được ví như giấc “mộng xuân” ngắn ngủi mà một khi mất đi con người ta dù có ngàn vàng cũng không thể nào mau lại được:
Dẫu mà ai có nghìn vàng
Đố ai mua lấy được một tràng mộng xuân” (câu 175 - 176)
Cho đến khi đêm nằm ngủ trong chiêm bao thấy hồn mình thành bướm nhởn nhơ đó đây, nhưng khi tỉnh giấc thấy mình vẫn là con người nên lòng còn tiếc nuối ngẫn ngơ:
“Khi bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ” (câu 218)
Mọi sự vật sự việc, mọi hiện tượng ở đời cũng chỉ là một giấc mộng Nam Kha huyễn hóa và vô tình mà thôi
Giấc Nam Kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không" (câu 83 - 84)
.“Giấc mộng Nam Kha”, có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên. Kể về chuyện của Thuần Vu Phân, nhân ngày sinh nhật của ông, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, ông ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bát giác ngủ quên.
Trong giấc mơ, ông mơ thấy mình đi thi rồi đậu trạng nguyên và được vua gã công chúa cho ông. Sau đó không lâu ông được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Ông cố gắng làm việc và quý mến nhân dân nên được nhân dân hết lòng khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của ông đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có bảy con, năm trai hai gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động ông về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng người dân không cho.
Khi nước Thiên La đem quân xâm lược nước Đại Hòe, nước Đại Hòe bị thua trận nhiều lần. Các quan trong triều tiến cử Thuấn Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất săc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhận mệnh lệnh của vua, ông dẫn quân xuất chinh nhưng vì không biết phép dùng binh nên quân của ông đã bị thua và xuýt nữa ông bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuấn Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến và có những kiến đang cư trú ở đó. Nghĩ đến tích này mọi người gọi là “giấc mộng Nam Kha” hay còn gọi là “giấc hòe”.[1]
“Giấc mộng Nam Kha” được con người ví như là một giấc mơ về vinh hoa phú quý, nó chỉ là huyễn hóa không thật, khi tỉnh giấc mơ thì hiện thực vẫn trở về. Ở đây người viết đưa ra quan điểm: “Giấc mơ là có thật nhưng những điều trong giấc mơ chỉ là hư ảo.” Thế mới hay trò đời dâu bể khéo sắp bày và cuộc đời chỉ là một giấc mộng vô thương, hư vọng.


3. Quan điểm về tiền định, nghiệp báo, luân hồi
Nguyễn Gia Thiều cho rằng đời là tạm bợ nên phải ung dung tự tại để sống nhiều khi còn muốn tu hành thoát tục. Những điều này được thể hiện trong thơ ông nhưng chưa đạt rốt ráo của sự giải thoát. Ông muốn thoát khỏi chế độ xã hội bất công đã khinh thường và áp bức con người đến mức nghẹt thở cũng như người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc đã muốn phá tan cung cấm giam hãm mình bấy lâu nay để trở về sống đời “cục mịch nhà quê” mà không được. Điều này cho thấy làm người thật khó, không phải muốn gì cũng được. Ấy phải chăng đó là sự sắp đặt của “tiền định” mà con người không thể can dự vào:
Vẻ chi ăn uống sự thường
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.” (câu 51 - 52)
Theo Vũ Ngọc Khánh thì ý này lấy từ sách Mạnh Tử : “Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định” (một cái uống một cái ăn đều được định trước).[10] Những việc nhỏ như cái ăn cái uống mà còn được tạo hóa sắp đặt sẵn huống chi là những việc liên quan đến vận mệnh của con người. Con người không thể cưỡng lại nỗi mà đành cam chịu số phận khắc nghiệt do tạo hóa đã định trước.
Đó là tâm trạng bế tắc của Nguyễn Gia Thiều hay là sự bế tắc của cả xã hội phong kiến thế kỷ XVIII. Xã hội bế tắc là do con người hay do “tiền định”? “Một câu hỏi lớn không có lời giải đáp, cho đến bây giờ mặt vẫn chau.” Chính nhà thơ Huy Cận trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương đã nói như thế. Mọi sự bế tắc của kiếp người in hằn trên thể xác lẫn tâm hồn của các vị La Hán. Chính cha ông ta đã đem những tâm sự u uẩn, bế tắc ấy vào trong những tác phẩm của mình. Các vị La Hán đã dứt hết các phiền não rồi nhưng không ngờ khi thấy cảnh đời cơ cực của chúng sanh mà “các vị đau theo lòng chúng nhân”. Nhìn thấy cảnh đời cay nghiệt mà chế độ phong kiến đem lại cho con người thì “tượng không khóc cũng đổ mồ hôi”. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng viết:
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
Văn chiêu hồn từng thắm giọt mưa rơi.”
Theo ý của người viết nghĩa rằng “tiền định” còn hàm nghĩa là “nghiệp”. Đây là một quan điểm của đạo Phật. Do nhân của tiền kiếp của người cung nữ đã gieo cho nên ngày nay gánh quả báo là phải chịu tất cả những đau khổ. Do nghiệp của thân, khẩu, ý tạo tác mà ngày nay người cung nữ khó có thể mà thoát được dù có muốn thoát hay không. Chính cái nghiệp này đã trói buột cuộc sống của con người, nếu con người có vùng vẫy cũng không thể thoát nên đành phải chấp nhận nó mà thôi. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng nói:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Chính vì sự bế tắc không thể thoát ra khỏi cái nghiệp đã định sẵn mà Nguyễn Gia Thiều muốn tìm đến sự tu hành. Một mặt ông muốn tìm đến của Phật để mong dứt hẳn mối thất tình vây hãm con người:
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.” (câu 109 – 110)
Thất tình: là bảy thứ tình của con người gồm: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét và ham muốn, là con người ai ai cũng có bảy thứ tình này đã làm cho con người đau khổ, trầm luân. Ông muốn tìm đến cửa Phật để “mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên”. Hoa đàm: bởi chữ Ưu-đàm-hoa là một hoa thiêng-liêng của nhà Phật, ba nghìn năm mới có một lần nở hoa, mỗi khi có hoa tức có Phật ra đời.[11] Ông muốn mình như hoa đàm không vướng bận một chút ưu phiền nào. Đuốc tuệ: bởi chữ Tuệ hỏa, tiếng nhà Phật nói: ngọn lửa trí tuệ để đem chúng sinh ra khỏi nơi chướng ngại khổ sở. Ông muốn dùng đuốc tuệ để soi đường dẫn lối ông thoát khỏi sự bế tắc của cõi đời này. Nói cách khác là ông muốn tìm đến với đạo Phật để tu hành với tiêu chí “duy tuệ thị nghiệp” nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp để mà giải thoát.
Nguyễn Gia Thiều không chỉ tu theo Phật mà ông còn muốn tu theo đạo Lão nữa Ông muốn: “Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa” để quên đi những nỗi phiền muộn của cuộc đời. Ông muốn tiêu dao vui thú với thiên nhiên cho quên đi những tháng ngày u uất.
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.”(câu 113 - 116)
Ông muốn thoát khỏi cái thân uế trượt này siêu thăng như tiên để được tiêu dao không phải lo toan với những ưu tư phiền muộn. Nhưng không phải ai muốn đi tu là cũng tu được đâu? Ôn Như Hầu còn cảm thấy trên con người còn có một sức mạnh thần bí nào đó chi phối kiếp người mà con người tự mình không thể hiểu thấu trong hai câu thơ:
Cái quay búng sẵn trên trời'
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.” (câu 91 - 92)
Theo Vũ Ngọc Khánh chỉ có “ba chữ “cái quay búng” mà mỗi người hiểu một các khác nhau. Giáo sư Nguyễn Huy Bảo trong cuốn sách “Nhân bản Thiên Chúa Giáo” (trang 76 và 24) giảng “cái quay búng” trong Cung Oán Ngâm Khúc là Trời (viết chữ hoa). Giáo sư Tôn Thất Lương lại giảng “cái quay” là luân hồi của Đạo Phật”. Còn trong Chú giải Cung oán ngâm khúc thì cho biết: “Cái quay: bởi chữ Luân hồi, bánh xe quay, là cái máy quay của tạo hóa; nhà Phật nói: chúng-sinh ở trong thế giới, từ khi đầu tiên đến nay cứ bị quay xoay vần trong lục đạo hết kiếp này đến kiếp kia mãi, như cái bánh xe quay mãi không thôi. Chỉ có kẻ tu hành đắc đạo mới thoát khỏi luân-hồi ấy.”
Chỉ có ba chữ thôi mà có nhiều cách hiểu khác nhau. Cũng theo Vũ Ngọc Khánh: “Nếu chỉ có ba chữ “cái quay búng” thôi, có thể hiểu là sự “may rủi”. Nếu thêm chữ “sẵn” thành “cái quay búng sẵn”, có thể là “tiền định”. Nếu lại thêm hai chữ “trên trời” cái tiền định này ở ngoài tầm con người không phải ở dưới trần nhưng ở trên trời. “Cái quay búng sẵn trên trời” chi phối ra sao? Trí người không ai thấu hiểu chỉ thấy “mờ mờ nhân ảnh”. Con người mò mẫm tìm ngược xuôi trong bóng tối “như người đi đêm” không biết đi về đâu. “Máy huyền vi mở đóng khôn lường”[12]
Người cung nữ muốn trở lại với cảnh đời được sủng ái như ngày xưa không được mà muốn thoát ra để trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” cũng không xong. Đây chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều muốn vứt bỏ đi tất cả nhưng lửa duyên lại chưa dứt được còn muốn tu hành nhưng nghiệp quả lại không cho. Chính vì vậy mà ông ngán ngẫm nên không mong muốn gì thế sự nữa:­
Đa mang chi kiếp đèo bồng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.” (câu 111 – 112)
Đây không chỉ là tư tưởng của Nguyễn Gia Thiều mà là của một lớp người trí thức bấy giờ. Xã hội rối ren không còn kỷ cương, một tâm trạng bế tắc trước xã hội như thế con người ta muốn thoát khỏi nhưng không thể, để thấy xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII là một xã hội bế tắc khiến con người muốn vùng vẩy ra khỏi mà không được. Dù có thương cảm cho kiếp người hay có oán than cho xã hội thì Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một tấm lòng trung với vua giống như người cung nữ oán trách vua khi bị ruồng bỏ nhưng khi ước ao trở lại cảnh ái ân với vua như ngày nào không được thì nàng vẫn phải giữ lòng trung trinh:
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa.” (câu 355 – 356)
Đây là quan niệm về “chữ Trung” của Khổng Tử trong “Trung quân ái quốc” dù nhà vua có gì đi chăng nữa thì phận làm bầy tôi phải giữ lòng trung “Quân xử thần tử thành bất tử bất trung”. Nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng cuối cùng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh ở đây nàng cung nữ đã nói thay cho Nguyễn Gia Thiều một nhà luôn đặt trên mình ba chữ “quân, sư, phụ” cho nên phải tận trung với vua. Nếu không trung với vua thì không là người yêu nước, chính vì vậy mà các nhà Nho rất xem trọng điều này. Hai câu thơ này la hai câu kết của tác phẩm hàm ý rằng dù xã hội có thế nào đi nữa thì con người cũng phải tôn trọng những giá trị lễ nghi của cuộc đời. Như nàng cung nữ dù có oán trách vua nhưng vẫn giữ một lòng trinh bạch cũng như Nguyễn Gia Thiều dù có bức xúc với xã hội đương thời những vẫn giữ lễ nghĩa của một người tri thức.
3. Giá trị nghệ thuật của Cung oán ngâm khúc.
Với thể thơ song thất lục bát đã làm cho nhạc điệu của bài thơ là một bản tình ca đầy âm sắc. Với vần trắc của câu thất thứ nhất đã tạo nên một cảm giác rất gay gắt cho người đọc và người nghe. Nhưng câu thất thứ hai với vần bằng đã tạo sự nhẹ nhàng trở lại. Cho đến hai câu lục bát với vần bằng đã tạo nên một cảm giác trầm lắng xuống. Đây là nét độc đáo của bài thơ khi đọc đến hai câu lục bát có sự chùng xuống giống như những nốt trầm của một bài ca buồn. Theo người viết cảm nhận một khổ thơ bốn câu song thất – lục bát trong bài thơ này ẩn chứ nhiều cung bậc của cảm xúc. Câu thất thứ nhất nói lên sự ai oán, nỗi khát khao đến cháy lòng, câu thất thứ hai dịu hơn một chút vì sự ai oán và nỗi khao khát đã nguội dần, cho đến hai câu lục bát thì chùng hẳn vì biết rằng có mong đợi có ước ao cũng chỉ là tuyệt vọng mà thôi. Vần điệu song thất lục bát được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng một cách chặt chẽ. Chính vì vậy mà Cung oán ngâm khúc từ khi phôi thai cho đến khi hình thành là dùng để ngâm nga chứ không phải để đọc.
Cung oán ngâm khúc rất chặt chẽ về mặt cấu trúc cũng như sắc sảo về ngôn từ. Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, chuẩn xác, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục luỵ, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹt mai, thánh thót cung đàn, nỉ non tiếng địch, gay gắt điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, âm thầm chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả... Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt hảo mà không có từ ngữ nào có thể thay thế được. Nó giống như một tác phẩm điêu khắc đòi hỏi sự tinh xảo và tỉ mỹ đến từng chi tiếc mà người nghệ nhân phải rất tài hòa mới thực hiện được.Những danh từ được dùng như: bể khổ, bến mê, nước dương, bào ảnh, thất tình, hoa đàm, đuốc tuệ, tiền nhân, hậu quả... đều là những điển trong các Kinh Phật như Kinh Kim Cương, Pháp Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Truyền Đăng Lục... bên cạnh những từ ngữ của Lão giáo như: gió mát trăng thanh, thoát trần, cái thân ngoại vật, tiên,… đã làm cho tác phẩm khá phong phú về nghệ thuật.
Trong Cung oán ngân khúc, không gian chủ yếu là cảnh bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo cùng thời gian chủ yếu là bóng đêm và mùa thu với sự hồi ức đã tạo nên một bức tranh vô cùng đen tối, ảm đạm, buồn bả. Thông qua những hình dung từ về xúc giác, thị giác được chọn lọc một cách chính xác làm cho người đọc có nhiều sự tưởng tượng khác nhau. Hơn thế nữa, tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bằng giọng văn réo rắt làm bật lên tâm trạng não nùng, ai oán của nhân vật trong khúc ngâm một cách tài tình.
KẾT LUẬN
Cung oán ngâm khúc là khát vọng muốn đạp đổ tất cả những áp bức bất công của chế độ phong kiến của cung nữ biểu hiện tinh thần phản kháng, căm hận tột cùng của con người trước thực tại buồn đau để có được sự tự do hạnh phúc. Nàng cung nữ mong muốn có được tình yêu thương giống như bao người phụ nữ bình thường khác. Đó là một lý do chính đáng mà bất cứ một người phụ nữ nào cũng ước mơ. Nhưng đối với nàng là một điều không thể với tới. Cung oán ngâm khúc còn phê phán quan niệm “trọng nam kinh nữ” thông qua việc đa thê của vua quan phong kiến đã biến phụ nữ thành đồ chơi rồi ruồng không thương tiếc.
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Ôn Như Hầu đã dùng lời than oán của người cung nữ để bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy cuộc đời đầy tang thương biến đổi với những thăng trầm mà chính ông là người đã sống trong thời đại lịch sử ấy. Tâm sự của Nguyễn Gia Thiều là tấm bi kịch tiềm tàng những mâu thuẫn nghiệt ngã đến nối ông muốn thoát khỏi sự bức bách đó để sống một cuộc đời siêu phàm thoát tục. Tâm sự của ông cũng chính là tâm sự của bao người trong xã hội đương thời khát khao có được một cuộc sống bình yên. Nhưng xã hội lại bế tắc làm cho bao nhiêu người đau khổ đến nỗi nhân phẩm con người bị chà đạp đến đau lòng. Ước mơ được yêu được sống tự do được hạnh phúc là ước mơ chung của tất cả mọi người nhưng đối với người cung nữ điều đó thật xa vời. Ôn Như Hầu cảm thương cho thân phận người cung nữ cũng như là cảm thương cho thân phận của bao nhiêu người phụ nữ khác và cũng chính là thương cho thân phận mình. Đây là tư tưởng nhân đạo mà Nguyễn Gia Thiều đã gởi gấm qua tác phẩm.
Với những quan niệm của Phật giáo, Lão Trang, Khổng Tử, Mạnh Tử đã làm cho tác phẩm đa dạng về tư tưởng làm nỗi bật lên triết lý hư vô dẫu biết cuộc đời là bể khổ, là bến mê, tất cả những hạnh phúc chỉ là phù du ảo ảnh nhưng vẫn hy vọng một ngày mai tươi sáng. Dù ước mơ không trở thành hiện thực thì con người vẫn phải sống và sống với những khát vọng của mình. Sống sao cho đúng nghĩa để không phải bị tiếng đời mai mĩa và không phải ân hận khi chết đi. Giống như nàng cung nữ dù có oán trách vua ruồng bỏ mình nhưng vẫn giữ một tấm lòng trung trinh không thay đổi dù có sống trong cảnh cô đơn nơi hoàng cung. Cũng vậy Nguyễn Gia Thiều cũng giữ một lòng trung thành với vua cho dù chế độ phong kiến có nhiều điều bất cập. Đây cũng chính là quan niệm sống của Nguyễn Gia Thiều và cũng là quan niệm sống của tầng lớp tri thức phong kiến lúc bấy giờ.







Read more...

Chương trình truyền hình

Qùa tặng âm nhạc "Nhớ mẹ yêu"

Chương trình Truyền Hình

Chương trình Truyền Hình

Mùa Hè Xanh 2008

Mùa Hè Xanh 2008


  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP