Thông tin mới nhất: Phương pháp làm Phóng sự điều tra

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

I>  Đặc điểm các loại hình Sân Khấu.
Sân khấu là một loại hình NT tổng hợp, được trình diễn trên một sàn diễn, bản chất của SK rất phong phú và đa dạng, nhưng cái chung nhất đó vẫn là sự khắc họa, miêu tả và dự báo của đời sống xã hội từ trong quá khứ cho đến hiện tại và cả tương lai. Có thể thấy sự phong phú đó qua các thể tài- thể loại, nội dung- hình thức, trừu tượng- hiện thực, truyền thống- hiện đại…và đa dạng về thủ pháp và đặc thù nghệ thuật.
Sự phong phú sắc màu NT dân tộc SK bao trùm ở các loại hình và thể tài của nó: VD Tính chung nhất của thể tài là “bi”, nhưng từng loại hình có sắc thái:
bi hài (Chèo),
bi hùng (Tuồng), 
bi ai (Cải lương).
            Như vậy Sk truyền thống là NT biểu diễn được kết tinh từ những sáng tạo của cả một nền dân tộc, trong đó nền VHNT, là tư tưởng và tinh thần của dân tộc đó được biểu đạt qua các loại hình sau:
            NT Chèo: Chèo là loại hình NT SK  dân tộc chính thống. Đặc điểm NT của chèo mang thể tài bi hài, trình thức Sân đình, sân khấu trực khách. Nội dung tư tưởng phê phán vua chúa , địa chủ quý tộc và những thói hư tật xấu của xã hội.
Chèo có cốt chuyện giàu kịch tính, hấp dẫn với những đoạn thắt nút, mở nút gây bất ngờ.     Đặc điểm nỗi bật của chèo là anh hề, ăn nói bồn bã, có quyền trêu chọc mọi loại người như một van xả hơi cho những bức xúc trong tâm lý quần chúng và 2 yếu tố bi hài quyện vào nhau  Trong đau thương có tiếng cười và sau tiếng cười chứa đựng những cảnh đau thương.” Ngoài ra chèo là SK trực cách.
            VD: Một số trích đoạn tiêu biểu Thị Mầu lên chùa và xã trưởng- Mẹ Đốp (Vở Quan Âm Thị Kính), tư tưởng của vở diễn là tư tưởng Phật giáo và tác phẩm này đã phê phán những thói hư tật xấu của xã hội Phong kiến. Ngoài ra các tác phẩm chèo tiêu biểu khác như Súy Vân giả dại (Vở Kim Nham), Đánh ghen (Vở  Tuần ty Đào Huế), Trương Viên, Tấm cám…đã trở thành kinh điển cuayr nghệ thuật chèo.
            NT SKTuồng: Tuồng được xem là loại hình SK dân tộc nhưng ở cấp độ bác học. Đặc điểm Tuồng hay còn gọi là hát bội được sinh ra trong Cung đình, tồn tại trong cung đình, lớn lên trong cung đình, để phục vụ các lễ lạc lớn người ta thường dùng hát bội- Hệ thống âm nhạc của hát bội cũng rất chặc chẽ gồm 50 dụng cụ gồm Tứ tuyệt Bộ gõ, bộ kéo, bộ gãy, bộ kèn.
            Là thể tài  bi hùng, trình thức Cung đình, Nội dung ca ngợi những anh hùng, các đấng trượng phu, quân tử, đề cao nghĩa khí.
            Vd: Tác phẩm tiêu biểu: Sơn Hậu, Hồ thạch phủ, đặc biệt vở tuồng Tam nữ đồ Vương có nhiều tình tiết gây cấn, hình tượng đẹp văn chương điêu luyện, nhiều đoạn diễn có giá trị nghệ thuật cao. Còn có loại “tuồng hài” đậm tính dân gian như vở Ngêu, Sò, Ốc, Hến,
            NT SK Cải Lương: Là loại hình được tổng hợp từ nhiều bộ môn Nghệ thuật khác. Đặc điểm của Cải Lương thuộc thể tài bi ai, không có trình thức, mà chỉ có thị hiếu rộng rãi từ thành thị đến nông thôn và các tầng lớp người dân đều thưởng thức được.
            Cải Lương mang đậm tính tự sự, trữ tình và lãng mạn, trong đó nhạc tài tử Nam bộ được xem là nền tảng, linh hồn của vở diễn.
Vd: Tác phẩm Cải lương  Lan và Điệp, Lưu Bình Dương Lễ…

II> Đặc điểm của Kiến trúc.
            Kiến trúc là một bộ môn khoa học,  là một loại hình NT xuất hiện sớm trong lịch sử loại người. Kiến trúc có ý nghĩa thực dụng rất rõ nét một mặt nó là lĩnh vực tinh thần thuộc sáng tạo NT và lĩnh vực vật chất thuộc sáng tạo sx vật chất. Trong bất cứ công trình KT nào cũng cần có những yếu tố sau: Yếu tố Công năng đó là mục đích đầu tiên quan trọng nhất đối với một công trình KT, yếu tố Kỹ thuật- vật chất và yếu tố kỹ thuật. Những yếu tố này liên hệ chặc chẽ với nhau, tùy mục đích, tính chất, đặc điểm mà có những yêu cầu cao thấp khác nhau.
            Một tác phẩm kiến trúc mang một số đặc điểm sau.
            Kiến trúc là tổng hợp giữa khoa học kỹ thuật và nghệ thuật: một công trình kiến trúc dựng lên phải đáp ứng được yêu cầu sử dụng, phải ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thỏa mãn yêu cầu kinh tế và thẫm mỹ.
Đặc trưng của công trình kiến trúc được xây dựng luôn mang tính ứng dựng thưc tiễn, trong đó tính năng phục vụ lợi ích có ý nghĩa mục đích, tính năng thẩm mỹ mang ý nghĩa hình thức. Cho nên hình tượng của Kiến trúc là tính ứng dụng thực tiễn, mặt khác cái đẹp về hình thức kết hợp với cái ích của vật chất- tinh thần phản ánh tư tưởng chung về sự khẳng định cuộc sống, về tầm vĩ đại của tư tưởng nghệ thuật Kiến trúc.
Kiến trúc phản ánh xã hội và mang tính tư tưởng: Tác phẩm KT tạo nên một hình tượng khái quát, súc tích về một xã hội nhất định qua từng giai đoạn lịch sử. Trong các chế độ khác nhau của lịch sử đều có một nền KT khác nhau.
 Khi nói đến công trình KT Việt Nam là nói đến Đình, Chùa, Miếu luôn mang bản sắc riêng, với các gia trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo
VD: Công trình kiến trúc chùa: là công trình hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, không phát triển theo chiều cao (trừ các bảo tháp), để gây ấn tượng như các đền đài Ấn Độ, tạo ra sự ấm cúng đối với khách thập phương đến thăm như Chùa Nhất Trụ được dựng từ thời Lê Đại Hành, Chùa một cột, Chùa Phật Tích, Chùa Quang Nghiên, Chùa Kim Liên, Chùa Tây Phương
Kiến Trúc chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên và khí hậu: KT vì mục đích công năng và thẫm mỹ không thể thoát được  những ảnh hưởng của hoàn cảnh thiên nhiên, môi trường địa lý và điều kiện khí hậu. cho nên bố cục không gianKiến trúc hình khối, màu sắc, vật liệu….ở từng vùng là khác nhau.
Kiến trúc mang tính dân tộc:  Tính dân tộc thường được phản ánh rõ nét qua công trình KTvề nội dung và hình thức:
Về nội dung: Bố cục mặt phẳng phải phù hợp với phong tục tập quán, tâm lý, dân tộc, phải tận dụng được các yếu tố thiên nhiên và khí hậu, địa hình, vật liệu...
Về hình thức: Tổ hợp hình khối mặt đứng, tỉ lệ, chi tiết trang trí, màu sắc, vật liệu phối hợp được thỏa mãn nhu cầu thẫm mỹ của các dân tộc.
VD: Công trình kiến trúc tiêu biểu mang âm hưởng dân tộc: Ở khu vực Tây Nguyên thì nhà Rông là biểu tượng về không gian tinh thần của đồng bào dân tộc miền núi. Khu vực Nam Trung bộ công trình kiến trúc Tháp chăm thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm phản ánh đời sống tâm linh của dân tộc này qua nhiều Tk.
III> Đặc điểm của Điêu khắc.

Đặc điểm của ĐK: đều mang một đặc điểm quy ước về mặt khuôn khổ và những đường nét giống nhau, nhưng mang tính tư tưởng là quan trọng nhất và đặc biệt ĐK Việt Nam luôn mang trong mình những  đặc thù là khi tính tư tưởng được đẩy lên cao cho nên các tác phẩm Đk đều mang tính sử thi của dân tộc. Qua đó hình tượng của ĐK dù ở chất liệu nào cũng phải biểu đạt được nội dung mà tác giả thổi hồn vào đó. Cái biểu đạt cơ bản là những hình khối (kiểu cỡ) và đường nét (tính chất thể hiện).
Điêu khắc gồm 3 thể loại: Đại, Trung, Tiểu và 2 loại tính chất: Trực quan sinh động và điêu khắc tư duy triều tượng..
Nghệ thuật Điêu khắc Việt Nam, tuy ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới và quy mô có phần khiêm tốn hơn nhưng luôn có những thành tựu đáng tự hào; đó là dáng vẻ, bản sắc rất riêng. Điêu khắc Việt Nam không có những tác phẩm lớn thể hiện dấu ấn nhưng lại phong phú đa dạng về mô típ, có biến cách trong quá trình lịch sử và mang tính truyền thống sử thi của dân tộc. Tính sử thi trong điêu khắc mang tính chủ đạo và là tư tưởng cao nhất của dân tộc, thể hiện tính tư tưởng vĩ đại.
VD: Các tác phẩm điêu khắc nổi tiếng như: Bộ tượng Bát Bộ Kim Cương ở trong Chùa Mía (Sơn Tây, Hà Nội) cũng thuộc một trong số những tác phẩm điêu khắc truyền thống Việt gây ấn tượng. Ngoài ra còn nhiều môtíp ước lệ khác dùng trong điêu khắc trang trí (long, lân, quy, phượng), cá (mây, trúc) hóa rồng, sư tử hí cầu, ngũ hổ, ngũ phúc, tứ quý (mai, liên, cúc, trúc) các cặp mai- điểu, liên- áp, cúc- điệp, tùng- hạc, quy- hạc, nho- sóc. Những môtíp trong đó phản ánh sự tương thích hài hòa giữa các yếu tố thiên nhiên, nghệ thuật vị nhân sinh và tính ứng dụng thực tiễn đời sống.
 Hầu hết các tác phẩm Đk nổi tiếng của Việt Nam đều thuộc loại hình mỹ thuật tôn giáo trước hết là các tác phẩm tượng Phật và bồ tát. Những tác phẩm ĐK Việt Nam  không có các tác phẩm lớn như trên thế giới nhưng ĐK Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống lịch sử và tính sử thi của dân tộc qua từng giai đoạn.
4. Tranh yêu thích nhất của Việt Nam là tranh nào? Tại sao.
Tranh Sơn Mài là tranh được yêu thích nhất và được thế giới ưa chuộng. Bởi vì tranh Sơn Mài luôn đóng một vị trí và vai trò hàng đầu về chất liệu truyền thống trong nền hội Việt Nam. Đến với thế giới tranh Sơn Mài của Việt Nam cũng được chú ý đặc biệt vì nó có sắc thái riêng biệt và biểu hiện tính dân tộc đậm nét.
Những bức tranh Sơn Mài khi hoàn thành phải đòi hỏi rất nhiều chất liệu phong phú: nhiều loại bột màu,  vàng lá, bạc lá,…Nhưng chất liệu truyền thống không thể thiếu là sơn. Bức tranh khi hoàn thiện sẽ mất rất nhiều thời gian hàng tháng, hàng năm hoặc có thể nhiều năm. Họa sĩ phải mài đi, mài lại bức tranh nhiều lần cho thật phẳng. Sơn được vẽ nhiều lớp thì khi mài màu sắc hiện lên mới đẹp, huyền bí và lộng lẫy.
VD: Bảng màu sơn trong tranh sơn mài có rất nhiều loại nếu chú ý ta sẽ thấy khả năng và tính ưu việt của từng loại sơn như: sơn then đen bóng, sâu thẫm đến vô cùng. Sơn cánh gián trong veo óng ả như: Các tác phẩm “Hẻm phố của Lê Ngọc Linh”,  Mùa đông sắp đến của danh họa Trần Văn Cẩn”, “ Vườn Xuân, Tác nước chống lụt, Thiều nữ bên cây phù dung của  danh họa Nguyễn Gia Trí”.

Đặc biệt người vẽ tranh Sơn Mài luôn vẽ theo ngẫu hứng, theo tình cảm xuất phát từ lòng mình. Những rung động trong lòng mình như thế nào thì vẽ tranh như thế ấy, không theo quy luật nào cả. Chính vì thế mà hồn tranh Sơn Mài của Việt Nam trở nên sâu lắng và biểu hiện đậm nét đời sống của nhân dân hay truyền thống của dân tộc.
Ngoài ra Tranh Sơn Mài mang đậm tính chất thủ công và truyền thống thể hiện con người Việt Nam cần cù, kiên nhẫn, mang tính rất riêng của Việt Nam có giá trị về tính truyền thống của dân tộc. Về mặt nghệ thuật  là sự tổng hòa giữa yếu tố nghệ thuật và thủ công. Cho nên Tranh Sơn Mài Việt Nam đã, đang và luôn đóng góp vào vườn hoa nghệ thuật lớn của thế giới một bông hoa là và rất độc đáo thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc Việt.
 

5. Điện ảnh Việt Nam ra đời khi nào? Ý Nghĩa ra đời của phim truyện Việt Nam.
Điện ảnh Việt Nam ra đời trong khi đất nước đang chiến tranh bị thực dân thôn tính muốn đồng hóa dân tộc ta về VHNT, chúng mang theo cả một hệ thống văn hóa (báo chí, in ấn, phim ảnh, sân khấu…) để phục vụ công cuộc khai thác, “khai sáng thuộc địa” của chúng. Trong đó, loại hình nghệ thuật điện ảnh xuất hiện đồng thời cùng với hệ thống văn hóa mà thực dân mang theo.
Cảnh trong bộ phim "Chung Một Dòng Sông"
Theo một tờ báo đáng tin cậy là tuần báo Nam Kỳ xuất bản tại SG vào những năm 1898-1899: “Điện ảnh du nhập vào Việt Nam  chậm nhất là cuối tháng 9 – đầu tháng 10 năm 1898, sau Pháp 3 năm.
Theo đó, ông D’Are là một trong những người đầu tiên đưa điện ảnh vào Việt Nam và cũng có thể là người thực hiện những đoạn phim đầu tiên quay ở Việt Nam. Trong một đoạn phim có chi tiết đặc biệt là hình xe lửa chạy vô đậu tại nhà giấy Chợ Lớn. Tiếp đó là những đoạn phim quay phong cảnh tại kinh đô Huế; phong tục, hội hè, đình đám; hoặc các nhân vật thời thượng trong xã hội đương thời.
  b, Đặc điểm, ý nghĩa ra đời phim truyện VN?
Phim truyện Việt Nam bắt đầu từ vở Kim Vân Kiều không thành công (1923). Đây là một bộ phim câm, trắng đen, dài 500m, không có tính nghệ thuật cao và thất bại về doanh thu.  Đặc điểm ban đầu của phim cho thấy, cốt chuyện, bối cảnh diễn viên, là người Việt Nam; nhưng phần hậu kỳ là người nước ngoài, nên nội dung tư tưởng không được quan tâm, thậm chí nhiều phim  nhằm mục đích bôi nhọ dân tộc, ca ngợi công cuộc xây dựng của nước đại pháp tại Đông Dương.. Tiếp đến là những loạt phim quay những tiếc mục hề ngắn

Tiếp đó năm 1939 hãng “Việt Nam phim”  của ông Trần tấn giàu và “Asua Film”  của Nguyễn Văn Định ra đời, do người Việt Nam thực hiện. Nhóm “ Việt Nam phim” có sự tham gia của Khương Mễ, Đỗ Hữu Thơm … năm 1939, sản xuất được phim tài liệu “Bà Huyện Thanh Quan trên đèo ngang”, phim truyện “Một buổi chiều trên sông Cửu Long”, và “Thầy pháp râu đỏ’. Nhóm “ Asua phim” có sự tham gia của nghệ sĩ  Tám Danh sản xuất được một số phim truyện đầu tiên do người Việt Nam thực hiện từ đầu đến cuối trên đất Việt Nam nên được công chúng đón nhận như phim: “Trọn tình, Khúc khải hoàn, toét sợ ma.
3 đặc điểm ban đầu của phim Việt Nam bao gồm:
            Đặc điểm thứ nhất Buổi bình minh của ĐAVN bị lệ thuộc người pháp cụ thể như Phim Kim Vân Kiều. Cốt truyện, bối cảnh và diễn viên đều là người Việt Nam nhưng phần hậu kỳ, in lồng tiếng, thu thanh cả đạo diễn và chuyên viên làm phim đều là người nước ngoài.
            Đặc điểm thứ hai Những người làm phim VN đều là do tính tự giác, kinh nghiệm đem lại cho họ, vốn tự bỏ như hãng“ Việt Nam phim” và “Asua phim
            Đặc điểm thứ  ba Phim CM “Chung một dòng sông” đánh dấu thành công của phim truyện Việt Nam, sau hòa bình, đất nước thống nhất. Thông qua nội dung của phim đòi hỏi thống nhất đất nước, chống sự chia cắt của Đế quốc Mỹ, qua mối tình của 2 thanh niên Hoài và Vận họ tìm cách để yêu và gần nhau, phim nhắm đến HTXH CN mà đảng để ra.
Ý Nghĩa lịch sử của phim truyện Việt Nam.
Những thành tựu của ĐAVN mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, trong thời chiến những nghệ sỹ điện ảnh là những chiến sỹ đã phát huy truyền thống dân tộc cho đến ngày hòa bình và dù trong hoàn cảnh nghèo khó, khi mới thoát thai điện ảnh Việt Nam đã tự lực cách sinh bằng khả năng hiện hữu của mình để tiếp tục phát huy những bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc.
ĐACM Việt Nam mang một diện mạo mới kết hợp giữa 2 yếu tố truyền thống và hiện đại.
Trong khi Truyền thống với những thành tựu vang dội trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Điện ảnh Miền Nam được coi là một nền “Điện ảnh huyền thoại” với những bộ phim tài liệu kháng chiến do điện ảnh QK 8 xây dựng và hoàn thiện từ các khâu như in tráng, phổ biến cho nhân dân xem
VD: phim “Trận Mộc Hóa, sản xuất 1948”, “ Lễ xuất quân trung đoàn 115, trận Xa Ban, Chiến dịch Trà Vinh, Cầu Kè…”, góp phần hình thành nền điện ảnh dân tộc.
Điện ảnh bắc bộ gặp nhiều khó khăn hơn lúc này người làm Điện ảnh cũng là những người làm cách mạng tay súng, tay máy đó là hình ảnh đáng tự hào của ĐA CM Việt Nam với các bộ phim “Trận Mộc Hóa, Dân Công Phục Vụ Tuyền Tuyến
Hiện đại: Chính là tư tưởng của thời đại mới, thời cơ mới của dân tộc. Sau giải phóng điện ảnh Việt Nam tạo được diện mạo mới mà các nước trên thế giới phải mến phục về tính truyền thống của dân tộc.
VD: Bao giờ cho đến tháng 10, Cánh đồng hoang, Chị tư Hậu

6. Văn học là gì? Những loại hình liên quan đến Văn học và các chức năng của Văn học.
Văn học là ngành sử dụng ngôn ngữ và hình tượng để phản ánh hiện thực. Có thể là một truyện ngắn, môt bút ký, một bộ tiểu thuyết…
Trong đó, ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc thù của văn học. Không có ngôn ngữ thì không có văn học, bởi vì ngôn ngữ chính là điều kiện cụ thể hóa- vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tương, tính cách và cốt chuyện. Ngôn ngữ của tác phẩm Văn học là ngôn ngữ toàn dân, của đời sống xã hội được nâng lên một trình độ nghệ thuật
VD:
Hình tượng trong văn học là sản phẩm khái quát hóa từ đời sống XH, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan và các hình tượng bao giờ cùng là thành quả của tư duy sáng tạo và hư cấu của nghệ sĩ. Thông qua hình tượng đó phản ánh giai đoạn lịch sử nhất định.
VD: Tác phẩm “Tắt đèn” là cuộc sống gia đình chị Dậu và sự tàn ác, thối nát của chế độ Pk thống trị tại làng Đông Xá. Thông qua hình tượng chị Dậu bài văn đã dùng ngôn ngữ nói lên cả một chế độ phong kiến thối nát.
Những loại hình liên quan đến văn học. Trong tất cả các loại hình nghệ thuật khác đều liên quan đến Văn học, nhưng có 2 loại hình NT chính đó là Sân khấu và Điện ảnh.
Trong khi đó Sân khấu: gồm “Rối, Kịch câm, ca múa nhạc, kịch…” đều dùng đến kịch bản Văn học để khắc họa, miêu tả, dự báo của đời sống xã hội từ trong quá khứ cho đến hiện tại và tương lai và  kịch bản văn học được xem là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của loại hình này.
Vd: Các tác phẩm múa rối đặc sắc như: Vở diễn Trần Cổ Loa Thành, đặc biệt vở diễn Huyền thoại tiên rồng, nội dung của vở diễn xoay tác phẩm văn học truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ nói về truyền thuyết 54 dân tộc anh em, được sinh ra từ bọc trứng 100 con dù có người sống ở Đồng Bằng, người Miền Núi, nhưng tất cả đều có chung một dòng máu. Họ yêu thương đoàn kết vui buồn có nhau. Họ triều mến nhau và gọi 2 tiếng Đồng bào.
Điện ảnh bao gồm: “Phim tài liệu, phóng sự, khoa học viễn tưởng…” Văn học đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng cốt chuyện, lời thoại, sự sắp xếp có ý đồ của đạo diễn và tác giả để tác phẩm từ kịch bản Văn học chuyển thể thành nội dung sống động phản ánh chân thật đời sống hiện thực.
Vd: Các tác phẩm: Kim Đồng, Lửa trung tuyến, Mùa ổi…
Các chức năng của VH: Trong ĐSXH VH là một nhu cầu không thể thiếu, với tư cách là một hình thái ý thức Vh đưa con người đến sự hoàn thiện hơn, nâng cao khả năng con người trong quá trình chiếm lĩnh và chinh phục hiện thực khách quan. Vh được xây dựng trên 3 phương diện.
Nhận thức và dự báo: Khi nắm bắt được trong  đời sống tính toàn vẹn, thẩm mỹ, nhà văn thường đem vào tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó chính là một trong những yêu thế đặc thù  trong chức năng nhận thức VH.
Vd: Tác phẩm Ông gìa và biển cả- Chức năng VH còn tạo tiền đề cho chức năng dự báo phản ánh cuộc sống toàn vẹn, sinh động, vươn tới tầm cao của sự khái quát, sự vận động bên trong của đời sống xã hội hiện thực.
Thẩm mỹ và giải trí: Văn học nghệ thuật đảm nhiệm một chức năng thẩm mỹ tích cực mà không có một lĩnh vực nào có thể thay thế được. Vh đem đến cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của cuộc sống, thể hiện những khía cạnh cụ thể, sinh động, khơi dậy cho người đọc cảm xúc xã hội tích cực…Đây là khả năng đặc thù của Vh mà cái đẹp của đời sống được khám phá một cách nghệ thuật.
Ngoài ra tác dụng giải trí như một chức năng độc lập của nền văn học nghệ thuật nói chung, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư tưởng của tác phẩm, người đọc tìm thấy khoái cảm nếm trải những tình huống tâm lý, cảm xúc vốn có trong cuộc sống con người.
Giáo dục và giao tiếp: Vh có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân cách, giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng tình cảm con người. Vì vậy Văn học trở thành hình thức giáo dục tự nhiên hơn cả.Ở một khía cạnh nhất định VH còn làm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp giữa tác phẩmvà công chúng, tác giả và tác phẩm với đối tượng của mình để hiệu quả đem lại cao hơn trong việc thưởng thức các tác phẩm văn học nghệ thuật.
                                                                                                                                                   Vũ Luân

0 nhận xét:

Chương trình truyền hình

Qùa tặng âm nhạc "Nhớ mẹ yêu"

Chương trình Truyền Hình

Chương trình Truyền Hình

Mùa Hè Xanh 2008

Mùa Hè Xanh 2008


  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP