Thông tin mới nhất: Phương pháp làm Phóng sự điều tra

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2009

Áo dài ơi!

"Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Ðó là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và những ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc.
Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đã ghi lại rất nhiều nét đan thanh không những qua ca dao tục ngữ mà còn qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà áo thướt tha bay lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước.

Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ - một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện - rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị của Pháp - quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế - tà áo dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh, và khiếu thẩm mỹ của người Việt. Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đã bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và váy.
Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày.
Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánh, nhưng vẫn không làm giảm nét đẹp của người nữ. Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô tả rõ rệt qua bài ca dao Mười Thương:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong những dịp hội hè đình đám cưới hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào và phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo chuỗi hạt vàng, chân mang giày dừa, dép cong.Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn.
Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của người nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn gói ghém nhân sinh quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi người. Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm.
Một kiểu thời trang mới đưa ra bao giờ cũng xuất phát từ thành thị và phải mất cả chục năm - nếu không bị đào thải - mới được phổ biến sâu rộng về thôn quê. Do đó, có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn Phúc. Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo dài thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Và 1763 năm sau khi vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà mặc váy, thì vào năm Minh Mạng thứ 9 tức là năm 1828, triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian có câu ca dao than vãn:

Chiếu Vua mồng sáu tháng ba
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì... lột quần chồng sao đang!
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan!

Trước sự than vãn và chống đối của giới nữ, phe đàn ông con trai an ủi vỗ về:
Trúc xinh trúc mọc ngoài sân
Em xinh thì váy hay quần vẫn xinh!
Từ chiếc áo ngũ thân, vạt con nấp sau vạt trước được cắt ngắn bớt cho gọn, và đó là hình dáng chiếc áo dài Việt Nam, còn giữ lại cho đến bây giờ. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, có những cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức là nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc áo the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên trong. Các kiểu trang sức thì đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn... Tóc vẫn còn để dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn khăn nhung, trời lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng. Tuy nhiên, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục.
Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt lại được biểu lộ qua chiếc áo dài. Việt Nam thoát ách đô hộ của người Tàu không bao lâu thì lại rơi vào tay người Pháp. Khi văn hóa Lang-sa tràn vào nước ta thì chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nôm và Hán, và cách ăn lối ở của ta cũng lần lần thay đổi và cố nhiên áo quần cũng chịu ảnh hưởng. Một nhân vật có tên là Cát Tường -có người cho biết đó là một họa sĩ tên là Nguyễn Cát Tường- tung ra kiểu áo dài mới mệnh danh áo Lemur. Chữ Lemur viết trại theo danh từ Pháp le mur có nghĩa là cái tường viết trại tên họa sĩ Cát Tường.
Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cổ xúy cải cách xã hội, và được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất là tại Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng, cổ lá sen, cổ nhún tai bèo ... áo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan” mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi lỏng, rẽ ngôi lệch. Hồi đó, ngay tại cố đô Huế nơi có triều đình Việt Nam và Tòa Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời a dua mặc ”mốt” Lemur, và dân Huế có bài vè như sau:

Vè vẻ vè ve
Nghe vè ”mốt” áo
Bận áo lơ-muya
Ði giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Ði chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cổi liền lơ-muya!
Tại Hà Nội, cây bút châm biếm thời đại Tú Mỡ cũng có bài nhại Mười Thương về áo tân thời như sau:

Một thương tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tý ”nữ quyền” giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương... thôi để mình ta thương mình!

Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời:

Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa
Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!

Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà thủ cựu đã không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà đã xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường phố Hà Nội.
Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn. Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu đan, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung hòa được mới với cũ để tôn vinh những nét đẹp của người nữ và tìm được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ.
Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc ống túm.
Cho đến cuối thập niên 1950, áo dài Việt Nam theo dòng lịch sử thay đổi từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển Lãm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim... Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp nơi. Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xảy ra để bày tỏ chống đối. Chiếc áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với kiểu áo dài cổ cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một.
Ðầu thập niên 1960, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một kiểu mới: Áo dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa bớt những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp tay xéo vai, nên thân hình người nữ được ôm gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ. Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini-raglan tay ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi-raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng lụa. Nhiều người còn cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu.
Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”.
Cuối thập niên 1960, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả ái. Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ. Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng phía ngực và tay ráp bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai tay, có khi là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may bằng hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn nhắc nhở đến ngày xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của mình.
Nữ sinh Việt Nam trước 1975 đến trường đều thường là ”áo trắng học trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Ðồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương qua thơ nhạc.
Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân chủ, kể từ thời Ðệ nhất Cộng hòa (tháng 7-1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục áo dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàng. Ý hẳn đó là ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên ngôi hoàng hậu trong cuộc đời của chàng vậy.
Từ cuối thập niên 1960, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 là nhà may Thanh Khánh - nay mở tại Paris, Pháp - nhà may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur - nay mở tại đường Brookhurst, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

Như trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc. Sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975, chiếc áo dài cũng theo những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính trên quê hương mình có một thời gian đã đẩy lùi chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc. Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người Việt là ở đó có áo dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp với trình độ thẩm mỹ khá cao.
Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Ðặc biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Việt Nam.
Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginia... Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc.
Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ.
Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập.
Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc.
Trần Thị Lại Hồng

Read more...

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2009

Tạo sự khác biệt trong khi phỏng vấn

Một số người đã rất cố gắng và mất khá nhiều công sức để tạo sự chú ý đối với nhà tuyển dụng, để vượt qua đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên đôi khi chúng lại có thể gây cho nhà tuyển dụng cảm giác khó chịu và thất vọng.
Có thể, trong buổi phỏng vấn, một số ứng viên nhận được một hoặc hai nụ cười trên khuôn mặt nhà tuyển dụng, thế nhưng trên thực tế, nhà tuyển dụng lại không tìm thấy ấn tượng tốt gì về ứng viên này. Dưới đây là một số trường hợp điển hình theo khảo sát mới đây của Careerbuilder:
- Thay vì nói, ứng viên biến các câu trả lời thành lời ca.
- Một số không viết thư xin việc mà nói trực tiếp với nhà tuyển dụng như một bài hát rap.
- Một vài ứng viên bày tỏ mong muốn rằng nếu anh ta được tuyển dụng thì anh ta cũng sẽ nghỉ trong năm tới.
- Một vài người thì nói rằng anh ấy cần phải có một công việc vì anh ấy đã gửi hồ sơ đi 3 lần rồi và đều thất bại.
- Người khác nữa thì chia sẻ thẳng thắn rằng anh ta không có kinh nghiệm liên quan đến công việc định xin tuyển, nhưng bạn của anh ta thì lại có và anh ấy tin rằng bạn bè sẽ giúp đỡ.
- Có người thì đưa cả mẹ của mình đến và để cho mẹ anh ấy làm chủ toàn bộ cuộc phỏng vấn.
Do đó, nếu muốn để lại hình ảnh đẹp trong mắt nhà tuyển dụng, bạn hãy thể hiện là một người chuyên nghiệp và có năng lực. Dưới đây là 4 mẹo giúp bạn trả lời một câu hỏi mà hầu hết các nhà tuyển dụng đều muốn biết “Tại sao chúng tôi lại thuê anh (chị)?” bằng một phong cách đặc biệt và ấn tượng.
Biết được giá trị của bạn: Trước khi đi phỏng vấn, hãy nghiên cứu website của công ty đó để hiểu về lĩnh cực kinh doanh và mục tiêu của họ. Đây là những thông tin sẽ giúp bạn làm nổi bật những khả năng có liên quan đến vị trí cần tuyển.
Chia sẻ một số thông tin cá nhân: Hầu hết các nhà tuyển dụng đều cho rằng những nhân viên có khả năng khác ngoài khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc sẽ làm tốt hơn các nhân viên khác. Do đó, nếu bạn có một sở thích, hoặc khả năng đặc biệt nào thì đó sẽ là điểm nhấn của bạn.
Thể hiện sự nhiệt tình: trong suốt buổi phỏng vấn, hãy cho nhà tuyển dụng thấy được bạn có thể đóng góp được gì cho công ty, và điểm nổi bật nào đã làm bạn quan tâm và xin tuyển vào công ty đó. Luôn mỉm cười và tỏ thái độ tích cực, thể hiện sự nhiệt tình theo đuổi cơ hội công việc này.
Bản lĩnh: Thể hiện cá tính của bạn và những thành quả nổi bật để tạo được ấn tượng tốt hơn. Nếu bạn là một người nhút nhát, thì cần phải thật thoải mái và quyết đoán, tất nhiên, điều này là rất khó. Do đó, điều quan trọng trong suốt cuộc phỏng vấn là bạn cần phải chắc chắn rằng mình có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của nhà tuyển dụng ở vị trí đó.
Chiến lược tìm việc không phải là cái gì ghê gớm lắm.Trên thực tế, chú trọng nhiều đến các các yếu tố cần thiết truyền thống như nghiên cứu công ty, chuẩn bị kỹ lưỡng cho buổi phỏng vấn thường sẽ mang lại hiệu quả hơn là việc chỉ chú tâm đến việc phát triển các yếu tố thuộc về kỹ xảo và sự khéo léo.

Read more...

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2009

Bao giờ thôi "nói không" để bắt đầu "nói có"

Ngành giáo dục nước ta đang dùng biện pháp chống để xây. Từ phong trào “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” được mở rộng thêm nhiều “nói không” nữa như không ngồi nhầm lớp, không vi phạm đạo đức nhà giáo…
Để giải quyết một vấn đề thường có nhiều cách tiếp cận; chống để xây cũng là một cách nhưng thường là cách “đối đế” lắm mới áp dụng, nhất là trong chuyện dạy và học. Sau một thời gian đầu quan sát và ghi nhận, dường như xã hội đã mất kiên nhẫn, như nhận xét của một nhà nghiên cứu: Bao giờ ngành giáo dục thôi “nói không” để bắt đầu nói có!
Trong một gia đình nếu bố mẹ cứ chăm chăm vào lỗi lầm của con, la mắng trách phạt chúng vì những lỗi lầm ấy, rất dễ tiên đoán con cái họ sẽ khó lòng vượt lên mặc cảm là kẻ “hậu đậu” và rất có thể chúng sẽ trở thành những con người như thế. Trong một tổ chức, nếu cấp quản lý chỉ biết nhìn vào khuyết điểm của nhân viên để đánh giá họ, chắc chắn ưu tiên số một của nhân viên là cố gắng tránh mắc khuyết điểm chứ không phải là nâng hiệu năng làm việc.
Sau các phong trào nói không, ngành giáo dục được những gì? Số học sinh bỏ học ngày càng tăng đến mức báo động, hàng loạt vụ giáo viên dùng vũ lực hay nhờ cơ quan công lực đối phó với học sinh bị vạch trần… Đây là hệ quả ắt phải xảy ra khi chúng ta chú ý đến khía cạnh tiêu cực của vấn đề và xin nói ngay, người viết hoàn toàn không phản bác hay chối bỏ thực tế là nhiều học sinh đang ngồi nhầm lớp, nhiều giáo viên không được đào tạo đúng mực về đạo đức của người thầy và những vụ việc được đưa ra công luận hoàn toàn xác đáng. Tuy nhiên, đọng lại sau những câu chuyện rộ lên lúc này, lúc khác là một tâm lý bi quan bao trùm ngành sư phạm. Nhiều nhà giáo đáng kính nói với người viết họ sẽ không còn an tâm bỏ công sức và tâm huyết cho học sinh nữa, chúng có hư hỏng, mặc chúng, họ sẽ chỉ dạy cho hết giờ, hết việc. Bởi họ không muốn bị dùi xuống vũng bùn dư luận chỉ vì một lúc nào đó lỡ tay “bạt tai” một học sinh hư. Đây là hiện trạng của nền giáo dục Mỹ nơi người thầy không muốn làm gì vượt quá yêu cầu vì sợ bị phụ huynh kiện cáo. Không lẽ đến lúc người thầy ở một nước tôn sự trọng đạo như Việt Nam cũng phải áp dụng chiến thuật “mũi ni che tai” để xin hai chữ bình yên?
Nhìn sự việc ở góc độ tiêu cực, sẽ chỉ thấy những giải pháp để chống tiêu cực – và thường không thành công. Sinh viên vay tiền để học không trả, cách ghi nợ lên bằng là cách dễ nhất nhưng như dư luận những ngày gần đây cho thấy, đó không phải là cách áp dụng cho ngành giáo dục. Cũng những vấn đề hiện nay của ngành giáo dục nhưng nhìn ở góc độ khác, sẽ thấy ngay nhiều biện pháp khác, nghiêng về “nói có” chứ không cần “nói không”. Tiêu cực trong thi cử? Tại sao không giảm hẳn tầm mức quan trọng chúng ta đang gắn cho các kỳ thi, chẳng hạn xét cả quá trình học tập và hoạt động ngoại khóa của học sinh thay vì chỉ dựa vào điểm thi tuyển sinh. Bệnh thành tích? Tại sao không đánh giá thành tích của nhà trường bằng những tiêu chí khách quan thay vì chủ quan để dễ xảy ra tiêu cực. Số lượng sinh viên ra trường có ngay việc làm là một tiêu chí không thể biến báo được để chạy thành tích.
Ngày xưa người viết bài từng có 10 năm đi dạy học và rất tiếc cũng bị góc nhìn tiêu cực cuốn hút. Chấm bài học sinh chỉ chăm chăm tìm lỗi để gạch đỏ và trừ điểm, chỉ quan tâm học sinh viết thiếu ý gì so với đáp án để lấy bớt điểm ra. Vì thế, người viết rất ngạc nhiên thấy giáo viên nước ngoài ít khi chú ý đến lỗi ngữ pháp mà chỉ xem học sinh có diễn đạt được ý các em muốn nói hay không. Nói cách khác, cách tiếp cận của họ là tìm chỗ đúng để cho điểm thay vì tìm chỗ sai để trừ điểm. Ở trường hợp đầu học sinh cố gắng viết sao cho đừng sai ngữ pháp nên câu văn sáo rỗng, khô khan, cứng nhắc; trường hợp sau học sinh được mặc sức sáng tạo trong bài viết và trong quá trình đó, các em phải tìm cách viết ngày càng chính xác hơn để diễn đạt hay hơn sự sáng tạo này.
Căn bệnh hiện nay của ngành giáo dục không thể chữa chỉ bằng cách “nói không”. Phải tôn trọng giáo viên, phải xem họ là một tác nhân chủ động của công cuộc cải cách giáo dục chứ không phải là “đối tượng” bị cải cách. Trao quyền rộng rãi hơn cho nhà giáo, sự tự chủ cho nhà trường để họ có trách nhiệm trong việc đào tạo học sinh chính là bước đi đầu tiên ở hướng “nói có” này.
NGUYỄN VẠN PHÚ

Read more...

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2009

Quốc lễ Giỗ tổ Hùng Vương: Bừng sáng Đạo lý "Yêu nước thương nòi"

Có lẽ trên thế giới này hiếm có nơi nào lại có được hình tức tín ngưỡng thờ Tổ độc đáo như ở Việt Nam khiến chúng ta phải nhìn nhận nó như một hiện tượng xã hội mang bản sắc riêng của Việt Nam, góp phần tạo nên hệ giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Đó là truyền thống thờ gia tiên trong từng gia đình, thờ tổ họ của dòng họ, thờ Thành Hoàng của làng và thờ Tổ chung của đất nước ở Đền Hùng. Xét dưới góc độ bảo tàng học, các cấp độ thờ cúng này như là hình thức lưu niệm nhằm tôn vinh những người đã sinh thành ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước.
Vào khoảng thế kỷ 6-7 trước Công nguyên, trên địa bàn miền Bắc nước ta hình thành một nền văn minh rực rỡ và nổi tiếng thế giới- văn hóa Đông Sơn- văn hóa của người Lạc Việt, là tổ tiên của người Việt. Cơ tầng văn minh này lại trùng hợp truyền thống tốt đẹp về cội nguồn dân tộc thông qua câu chuyện về Âu Cơ (Tiên) và Lạc Long Quân (Rồng) được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái với tên truyện Họ Hồng Bàng phản ánh lịch sử Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Chính Âu Cơ và Lạc Long Quân là thủy tổ của người Việt, là cha-mẹ của Vua Hùng.
Người Lạc Việt là chủ nhân văn hóa Đông Sơn, và muốn đi tìm tổ tiên của người Việt thì thì tất nhiên phải tìm trong các nền văn hóa Tiền Đông Sơn. Ngày nay tài liệu khảo cổ học đã chứng minh một cách chắc chắn phổ hệ Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đông Sơn là các nền văn hóa này phát triển thành văn hóa kia hợp thành một hệ thống văn hóa mà khởi đầu là văn hóa Phùng Nguyên với niên đại sớm được xác định ở di chỉ Đồng Chỗ là 3.800 + 60 năm cách ngày nay. Đó chính là những cơ sở khoa học để chúng ta khẳng định Việt Nam là đất nước có hàng nghìn năm lịch sử. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc viết nên thiên anh hùng ca hùng tráng và bất diệt. Và trong dòng lịch sử đó nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc đã được hình thành, tạo nên hệ giá trị tinh thần Việt Nam, tạo nên bản lĩnh văn hóa Việt Nam, trong đó đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" nổi lên như một truyền thống tiêu biểu.
ở Phú Thọ và một số địa phương khác có hơn 600 nơi thờ các Vua hùng, gia quyến và tướng lĩnh, nhưng tập trung nhất là khu di tích Núi Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương hay núi Nghĩa Lĩnh hiện có bốn đền thờ (Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Đền Giếng), một chùa (Thiên Quang Thiền Tự) và Lăng Vua Hùng. Cũng như các hình thức tín ngưỡng khác, việc thờ cúng các Vua Hùng khởi đầu và trước hết là công việc của dân, do dân. Với tấm lòng biết ơn và tưởng nhớ tổ tiên, nhân dân các làng quanh Đền Hùng đã tự đứng ra xây dựng các công trình thờ cúng các Vua Hùng. Đền Hạ nguyên là miếu thờ cũ của dân thôn Vi Cương (xã Chu Hóa), đền Trung là nơi thờ cũ của thôn Trẹo (xã Hy Cương), làng Cổ Tích xây đền Thượng, chùa Thiên Quang và đền Giếng. Một số người làm nghề buôn bán ở Hà Nội cũng tham gia đóng tiền để làm các bậc lên xuống và xây cổng Đền Hùng.
Bởi Vua Hùng là Ông Tổ chung cho nên trước đây nhiều địa phương đã đóng góp cho việc tu bổ, tôn tạo khu di tích này. Chẳng hạn, trong những năm từ 1918 đến 1922, có 18 tỉnh, thành phố ở Bắc Kỳ đã đóng góp tiền để trùng tu các đền. Đồng thời Nhà nước phong kiến cũng cho thực hiện một số cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho việc thờ cúng các Vua Hùng, như Nhà Lê miễn hẳn sưu thuế, phục dịch cho dân Hy Cương để phục vụ việc thờ tự và ngày hội gọi là dân Trưởng tạo lệ.
Ngay sau ngày hòa bình lập lại, Nhà nước ta đã cho tu bổ những công trình bị thực dân Pháp tàn phá (1955), xây dựng Nhà Công quán, đường ôtô (1693), nhà đón tiếp, trồng cây (1980-1983) và xây Bảo tàng Hùng Vương (1987). Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy di tích lịch sử-văn hóa phải gắn liền với việc phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện từng bước nâng cao đời sống nhân dân trong khu vực di tích, ngày 8-2-1944, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Dự án tổng thể khu di tích lịch sử Đền Hùng với mục tiêu cụ thể là: Bảo tồn, tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử và các công trình kiến trúc cổ đã được xếp hạng; xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các công trình phục vụ lễ hội và khách tham quan du lịch, song không được phá vỡ cảnh quan khu di tích; bảo vệ, tu bổ rừng cấm và vùng đệm, cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân vùng ven khu di tích.
Cho đến nay, các nhóm dự án đã và đang được triển khai đồng bộ, khẩn trương hoàn thiện các hạng mục chủ yếu để phục vụ lễ hội năm 2000. Tỉnh Phú Thọ cũng đã dành một t rộng trong khu di tích Đền Hùng để các bộ, ngành, đoàn thể, các tỉnh, thành phố cây lưu niệm; đồng thời cũng dự kiến dành 61 quả đồi quanh Đền Hùng để các địa phương cả nước xây dựng các công trình đặc sắc của địa phương mình với ý thức "trăm con một bọc". Với tấm lòng "cả nước hướng về Đền Hùng". Trong một cuộc hội thảo gần đây tổ chức tại Phú Thọ, nhiều nhà nghiên cứu tán thành ý tưởng bên cạnh việc bảo tồn, tu bổ những di tích hiện có, Nhà nước ta cần cho xây dựng thêm trong khu di tích Đền Hùng những công trình tưởng niệm mang dấu ấn thời đại chúng ta như đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân, đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ và Tháp tưởng niệm các Vua Hùng ở những vị trí và quy mô thích hợp những giải pháp kiến trúc tối ưu, tương xứng tầm vóc của thời đại chúng ta nhằm tôn vinh với lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng.
Thư tịch xưa không ghi chép một cách đầy đủ về quá trình tổ chức Lễ hội Đền Hùng. Tuy nhiên, qua ngọc phả Hùng Vương soạn đời Hồng Đức năm thứ nhất (1470) chúng ta được biết từ đời Nhà Đinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê việc thờ cúng ở làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Những ruộng đất, sưu thuế được để lại dùng vào việc cúng tế và nhân dân các vùng của đất nước đều đến lễ để tưởng nhớ các "đấng thánh tổ ngày xưa". Đồng thời cũng từ Hồng Đức hội Đền Hùng được "gia hạn quốc tế", việc tế lễ do Nhà nước chủ trì ủy quyền cho quan trấn thay mặt triều đình vào tế. Đến triều Minh Mạng thì bài vị thờ Hùng Vương được rước vào Huế thờ ở miếu Lịch Đại Đế Vương, còn ở Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) lễ hội Đền Hùng mới cho khôi phục như cũ và cho xây Lăng Hùng Vương ngay cạnh Đền Thượng. Trong thời Pháp thuộc, dù không tổ chức lớn, nhân dân địa phương vẫn tự tổ chức thờ cúng các Vua Hùng. Từ sau năm 1958, Hội Đền Hùng được Nhà nước ta tổ chức, năm chẵn do Bộ Văn hóa-Thông tin chủ trì, còn năm lẻ do UBND tỉnh chủ trì. Và ngày 26-7-1999, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn năm 2000, trong đó có Giỗ Tổ Hùng Vương. Như vậy, năm Canh Thìn là năm đầu tiên Nhà nước ta tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương với tầm quốc tế.
Đến ngày Giỗ Tổ, đến với Đền Hùng là đến với hồn đất nước, là cuộc hành hương về cội nguồn dân tộc với tâm tưởng "Uống nước nhớ nguồn", với lòng tôn kính và biết ơn công lao của tổ tiên, không chỉ của mình mà của cả dân tộc, với ý thức "trăm con một bọc", biểu hiện cao đẹp nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, gắn bó cộng đồng các dân tộc, dù Nam hay Bắc, dù miền ngược hay miền xuôi, dù người Kinh hay người dân tộc thiểu số đều là con một nhà trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Sự thiêng liêng và đức tin là hai yếu tố cơ bản của tín ngưỡng. Nhưng sự thiêng liêng ở Đền Hùng không làm người ta sợ hãi như khi đến các nơi thờ cúng khác, mà đến với Đền Hùng như đến bàn thờ tổ tiên trong gia đình với ý nghĩa lớn lao gắn nhà với nước: cha - mẹ trong gia đình và cha - mẹ dân tộc. Đạo thờ cha - mẹ chính là bản sắc văn hóa Việt Nam. Người Việt thường có xu hướng tôn vinh con người-con người thật cũng như con người huyền thoại. Người ta đặt niềm tin và cầu mong những điều giản dị không chỉ cho mình mà cả cho cộng đồng dân tộc: Đất nước thanh bình, mưa thuận gió hòa, vạn sự như ý, sức khỏe dồi dào... Ước nguyện riêng của từng người cũng là ước nguyện chung của cả cộng đồng.
Lễ hội Đền Hùng còn là sự hội nhập có tính xã hội trong đời sống đương đại, mang giá trị văn hóa tiêu biểu. ở đấy cộng đồng các dân tộc biểu dương sức mạnh cộng đồng, các giá trị văn hóa truyền thống với bản chất dân tộc, nhân văn và dân chủ thể hiện trong các hình thức rước sách, trò chơi dân gian, hoạt động văn nghệ,...
Ngày Giỗ Tổ đang đến gần. Người dân Việt Nam ta ở mọi miền đất nước và ở xa Tổ quốc, dù đến hay không đến được, đều hướng về Đền Hùng, hướng về cội nguồn dân tộc với lòng biết ơn công lao các Vua Hùng và với niềm tin vào sự trường tồn và sức mạnh của dân tộc.

Read more...

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2009

Thân thương Mùa hạ về


Lại một mùa phượng vĩ sắp nở hoa, ít ai nghĩ rằng phượng vĩ nở cùng lúc với hoa bằng lăng. Phượng vĩ đạp và nên thơ trong màu áo học trò, còn hoa Bằng lăng đẹp với những ai đang yêu, đã yêu và sẽ yêu…Bằng lăng luôn đẹp với những nổi niềm sau lắng, những nổi nhớ man mác gợi buồn lòng ai…
“Có một mùa hạ nồng nàn trên cánh bằng lăng
Cô bé ơi sao em vờ không thấy
Khi phượng vĩ bùng lên rực cháy
Hoa bằng lăng lặng lẽ tím trong chiều
Có kẻ giật mình như thể bắt đầu yêu
Sợ tuổi thơ vì sao xanh bay đi mất
Cái màu tím dâng lên tự lòng đất
Sao em cứ vô tình không biết đến chia tay
Chỉ tại bông hoa đầu tiên ấy tím say
Mà nổi nhớ đầu tiên cứ tìm về cô bé
Mây hạ lang thang như buâng khuâng rất nhẹ
Muốn nói cùng em - đã tím - mắt chiều”
Hoa bằng lăng thường tượng trưng cho một nổi buồn man mác, tuy nhiên có mấy ai hiểu được nổi lòng của hoa Bằng lăng tím trong chiều lộng gió, chỉ đôi lần ta nhận ra nhau, lúc đó hoa bằng lăng lại đẹp một nổi niềm giản dị, giản dị đến lạ kỳ… Bằng lăng thường tượng trưng cho một tình yêu chung thủy và cũng đôi lần nó tượng trưng cho một tình yêu đơn phương, nên ít ai biết rằng: khi ta yêu hoa bằng lăng cũng chính là ta đã một đôi lần yêu say đắm…:
“Bằng lăng tím ép vào thơ hò hẹn
Anh nâng niu từng cánh nhỏ mong manh
Bằng lăng đẹp nụ cười em bẽn lẽn
Ta bỗng xa rồi bằng lăng tím hóa xanh”
Và khi chứng kiến một tình yêu đơn phương, bằng lăng lại buồn như đang mang trên cành những nổi niềm chưa và không bao giờ nói ra:
“Bằng lăng tím tình đơn phương vô vọng
Tôi yêu người người có biết hay không
Để trong gió bằng lăng buồn không nói
Nở nụ cười chua chát đọng vành môi…”
Nhưng rồi một ngày nụ cười chợt đến trên những chùm bằng lăng rực tím, khi mà ai đó đã nói lời yêu hay những nổi nhớ dịu êm dưới hoa bằng lăng và khi ấy, bằng lăng biết rằng có một tình yêu đã và đang chớm nở:
“Anh yêu em dưới tàn bằng lăng ấy
Tình yêu anh như gió thoảng mây bay
Đi bên em lòng vui như trẩy hội
Em thơ ngây, lòng anh yêu mất rồi…”
Tình yêu của họ cũng từ đó chớm nở, và cho dù giữa họ có một khoảng cách vô hình nào đó, nhưng chàng trai và cô giái vẫn cố gắng vượt qua, và họ đã yêu say đắm…
“Ta xa nhau cách một bằng lăng ấy
Bằng lăng yêu cho đôi ta chốn này
Dù xa cách nhưng tình ta vẫn thế
Để ngày sau sánh bước tay trong tay…”
Hoa bằng lăng thật lạ, trên cùng một nhánh có đến hai màu: trắng và tím. Những bông hoa đầu cành phơn phớt trắng, dịu dàng, trinh bạch, còn những bông hoa cuối cành lại mang màu tím biếc thủy chung…anh say đắm, ngưỡng vọng và yêu tin như thế.
“Bằng lăng tím giữ tình ta mãi nhé
Tình yêu anh nồng cháy buổi trưa hè
Bằng lăng đó mỗi chiều anh vẫn nhớ
Tình nên thơ bằng lăng tím trên xe…”

Read more...

Kỷ niệm áo trắng

Tấm ảnh cũ bỗng rơi ra
Xúc động trào dâng nước mắt
Bóng dáng ngày xưa lớp học
Bạn bè một thuở của ta
Bao gương mặt giờ đã xa
Góp lại thành muôn nỗi nhớ
Cuộc sống vẫn đều nhịp thở
Hỏi rằng có ai nhớ không
Tình bạn còn đó thiết tha
Mang theo mỗi người.

Bài thơ này tôi đã được đọc ở trên một tờ báo tuổi học trò nào đó lâu lắm rồi, không nhớ nhan đề và tên tác giả nữa. Chỉ biết rằng âm điệu bài thơ quá hay và quá phù hợp tâm trạng nên cứ ghi nhớ mãi trong lòng cho đên tận ngày hôm nay!Ai mà chẳng trải qua thời hoa mộng tuổi học trò, cái tuổi thần tiên ấy. Những bạn học chung lớp ngày xưa ơi, bây giừo các bạn ở đâu và làm gì? Có khi nào chợt nhớ đến những kỷ niệm học trò xa xưa?hồi còn đi học chẳng hiém những cuộc đi chơi, cắm trại, dã ngoại, và đó chính là lúc cho ra đời những tấm ảnh kỷ niệm của cả lớp hay từng nhóm bạn. Bây giờ thì ai cũng có thể sở hữu một máy ảnh kỷ thuật số, hay chụp ảnh bằng điện di động chứ ngày xưa thì hiếm hoi lắm đứa nào con nhà giàu có mới có được một máy ảnh cơ là coi như của quý rồi! Phải nói dài dòng thế vì những tấm ảnh chụp chung cả lớp vì thế mà đáng quý vô cùng!,,,
Blog: Anh Vu

Read more...

Chương trình truyền hình

Qùa tặng âm nhạc "Nhớ mẹ yêu"

Chương trình Truyền Hình

Chương trình Truyền Hình

Mùa Hè Xanh 2008

Mùa Hè Xanh 2008


  © Blogger templates ProBlogger Template by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP